Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

Khám phá sao thủy và sao kim [HD - Vietsub]

Khám phá những hành tinh bí ẩn trong hệ mặt trời. Sao thủy (Mercurius) và sao kim (venus) là 2 hành tinh trong hệ mặt trời. Nhưng những điều kiện thì hoàn toàn trái ngược nhau. Một nơi thì lạnh giá và thường xuyên hứng chịu những va va chạm của thiên thạch, một nơi thì nóng với những vụ phun trào núi lửa và những cơn bão cực lớn.

Những điều kỳ lạ trong vũ trụ [Thuyết minh]
https://www.youtube.com/watch?v=2SkWT53V0XU
Liệu chúng ta có cô độc trong vũ trụ (The Universe Astrobiology)
https://www.youtube.com/watch?v=ORlF2QSET3s
Những hành tinh xa xôi (The Universe The Outer Planets 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=jhMVZ1gEDaQ
Những vụ nổ siêu tân tinh - The Universe SuperNovas [1080]
https://www.youtube.com/watch?v=DQTWRUGUWQg
Những vệ tinh xa lạ (The Universe Alien Moons) HD 1080i
https://www.youtube.com/watch?v=b63_x1NyaWk
Khám phá Dải Ngân Hà (The Universe The Milky Way 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=TyCvn8uafV4
Câu chuyện của những vì sao (The Universe Life And Death Of A Stars) - HD 1080
https://www.youtube.com/watch?v=qoA2X3c2c18



Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Chuyện chưa tiết lộ trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni

Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có gia phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa vùng Trung thổ bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

Lão tử - Khổng tử - Thích ca mâu ni
     Lão Tử - Khổng Tử - Thích Ca Mâu Ni

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?


Lão tử 

Lão tử
Lão tử


“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán).

Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

lão tử
Lão tử


Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”.

Khổng tử và lão Tử
Khổng tử và lão tử


Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Khổng Tử đến thỉnh giáo Lão Tử

Chuyen chua tiet lo trong lich su: Lao Tu, Khong Tu va Phat Thich Ca Mau Ni - Anh 5

Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng].

Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Khổng Tử

Khổng tử
Khổng tử


Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”.

Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”

Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

Khổng tử
Khổng tử và các học trò


Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

Khổng tử đối nhân xử thê


Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.

Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.

Phật Thích Ca Mâu Ni

 
Phật thích ca mâu ni
Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.

Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

Phật Thích ca Mâu ni


Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này.

Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo.

Phật Thích Ca Mâu Ni


Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa.
Thích Ca Mâu

Khám phá sao mộc hành tinh khổng lồ [HD - Vietsub]

Trpng vũ trụ Sao mộc và những vệ tinh của nó giống như một hệ mặt trời thu nhỏ trong hệ mặt trời của chúng ta. Trên sao mộc thường xảy ra những trận bão dữ dội. Cũng có thể đã từng tồn tại dấu hiệu sự sống trên một trong những vệ tinh (Europa) của sao mộc  Và một điều thú vị không phải ai cũng biết đó là nếu có 1 cái hồ đủ lớn để chứa nó thì nó sẽ nổi trên mặt nước :D. Mời các bạn xem phim! Chúc các bạn có 1 ngày thật vui vẻ



clip khám phá khác: 

Nicola Tesla Và những phát minh không tưởng
https://www.youtube.com/watch?v=4OPU8ejjwKU

Chiến tranh ngoài không gian trong tương lai - The Universe space wars [Thuyết Minh]
https://www.youtube.com/watch?v=eywY7_qH_lw

Ngày tàn của trái đất - End to the Earth [Thuyết minh] HD
https://www.youtube.com/watch?v=nM2eCUSNQ0I

Những điều kỳ lạ trong vũ trụ [Thuyết minh]
https://www.youtube.com/watch?v=2SkWT53V0XU

Liệu chúng ta có cô độc trong vũ trụ (The Universe Astrobiology) 
https://www.youtube.com/watch?v=ORlF2QSET3s

Những hành tinh xa xôi (The Universe The Outer Planets 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=jhMVZ1gEDaQ

Những vụ nổ siêu tân tinh - The Universe SuperNovas [1080]
https://www.youtube.com/watch?v=DQTWRUGUWQg

Những vệ tinh xa lạ (The Universe Alien Moons) HD 1080i
https://www.youtube.com/watch?v=b63_x1NyaWk





Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016

Tổng hợp những chiếc xe kỳ lạ!

Những chiếc xe đứng trong top kỳ lạ, có bánh xe mà như có chân, có thể đi trên mọi địa hình, hoặc không cần bẻ láy bánh xe mà vẫn có thể đi ngang đi dọc, hay chiếc xe với hình thù con rắng !!. Mời các bạn xem clip






Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2016

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

Giải mã Tam quốc: Lưu Bị và đoạn kết một cuộc tình chính trị

TPO - Hôn nhân chính trị vẫn là hôn nhân chính trị. Mỹ nữ Giang Đông Tôn Thượng Hương hoàn toàn có khả năng là một nước cờ cao tay mà Tôn Quyền cài vào bên cạnh Lưu Bị, hoặc để ám sát, hoặc để gây rối tập đoàn. Tuy nhiên, nàng không thành công...


Lưu Bị mỗi lần vào phòng đều được “tiếp đón” bằng đao kiếm.



Tôn Thượng Hương: “Chồng gì anh, vợ gì tôi?”

Sử liệu ghi chép về Tôn Thượng Hương không nhiều, nàng chỉ xuất hiện vài dòng trong Tam Quốc Chí: “Nguyên trước Tôn Quyền gả em gái cho Tiên chủ, Tôn phu nhân vốn là người tài giỏi, nhanh nhẹn cương mãnh, có phong thái của các anh” [1] và “Tôn phu nhân là em gái Quyền vốn kiêu căng, có nhiều binh tướng Ngô làm thủ hạ, thao túng ngang ngược chẳng có phép tắc.” [2]

Ngay cả danh tính cũng không rõ ràng, dân gian quen gọi nàng là Tôn Thượng Hương, xuất phát từ vở hí kịch “Cam Lộ Tự” của Trung Quốc. Trong khi sử sách chỉ ghi “Tôn phu nhân”, còn Tam Quốc Diễn Nghĩa nói nàng là Tôn Nhân, con gái vợ thứ của Tôn Kiên. Nhưng Tam Quốc Chí - Tôn Kiên truyện lại chú thích rằng: “Kiên có năm con trai: Sách, Quyền, Dực, Khuông là do vợ họ Ngô sinh; con út là Lãng, sinh về sau, còn có tên là Nhân.” Vậy Tôn Nhân là tên của con trai Tôn Kiên, chứ đâu phải con gái? Hy vọng đây là do La Quán Trung nhầm lẫn câu chữ, chứ không phải Tôn Quyền nhầm lẫn giới tính em mình.

Thêm vào đó, tính tình nàng cũng không được dịu dàng cho lắm. Không những mạnh mẽ, có phong thái của các anh, lại còn kè kè bên mình một dàn bảo kê đằng đằng sát khí: “Thị tì hơn trăm người đều quen cầm đao đứng hầu, Tiên chủ mỗi lần vào phòng đều thấy lạnh cả người.” [1]

Do vậy, tin rằng quan hệ của Thượng Hương và Lưu Bị đầy màu sắc chiến tranh chứ không phải tim hồng mặn nồng như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Bởi nếu đã tình chàng ý thiếp, tại sao lúc nào cũng có thị tì mang vũ khí đứng canh? Như thế thì Lưu hoàng thúc dù có gan hùm mật gấu, ôm ấp nhiều dự án khả thi đến đâu, cũng không thể nào triển khai trước mặt trăm người đang cầm đao cho được, chỉ đành mang một bụng ấm ức đến tìm Khổng Minh tâm sự. Cho nên Lượng mới biết rõ chủ công mình “sợ Tôn phu nhân sinh biến ngay sát nách.”

Vậy Thượng Hương đã làm gì mà Khổng Minh phải xem nàng như một thế lực đáng gờm?

Trong phim, Tôn Thượng Hương bị giành lại A Đẩu thì rút kiếm dọa tự sát, nhưng trong sử không chừng ngược lại.

Lưu Thiện: “Con suýt bị bắt cóc!”

Theo Vân biệt truyện, những ngày còn ở Kinh Châu, Thượng Hương và binh lính của nàng lộng hành ngang ngược đến mức Lưu Bị phải đặc biệt cắt cử Triệu Vân giám sát động tĩnh: “Tiên chủ thấy Vân nghiêm nghị cẩn trọng, tác phong đường hoàng, mới giao cho đặc trách chưởng quản nội sự.”
Nhưng khi Bị vừa nhấc chân vào Ích Châu, ở nhà lập tức có biến, chính là sự kiện Triệu Vân chặn sông giành A Đẩu nổi tiếng.

Đến đây, chúng ta có thể phớt lờ hình ảnh hiền lành ngây thơ của Thượng Hương trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, bởi như đã phân tích ở trên, nàng “dữ dội” thế cơ mà, không lý nào không hiểu ảnh hưởng nghiêm trọng của việc mang người kế thừa duy nhất lúc bấy giờ của Lưu Bị về Đông Ngô, lại càng không thể vô tư đến mức không báo cho Khổng Minh mà lén dẫn A Đẩu trốn đi.

Rất may, “Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về [2]. Nhưng phải huy động cả Triệu Vân lẫn Trương Phi, cộng thêm “giăng binh chẹn sông”, cho thấy việc giành A Đẩu về không hề dễ dàng, mà Thượng Hương cũng không đơn giản chỉ vô tình làm theo kế của anh mình.

Rất may, “Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về



Sau này, khi Bị xua quân đánh Đông Ngô trả thù cho Quan Vũ, La Quán Trung bảo rằng Quyền hứa trả lại Thượng Hương cho Bị. Nếu thật sự Quyền có nói như thế, chỉ e không phải đang giảng hòa, mà là đang chọc Bị nổi điên hơn nữa đó thôi. Trả gì không trả, lại trả quả bom hẹn giờ!
Đoạn kết cho một cuộc tình

Hôn nhân chính trị vẫn là hôn nhân chính trị, quá nhiều yếu tố bất lợi để một chuyện tình lãng mạn xảy ra trong bối cảnh chiến trường ngày đó. Tôn Thượng Hương hoàn toàn có khả năng là một nước cờ cao tay mà Tôn Quyền cài vào bên cạnh Lưu Bị, hoặc để ám sát, hoặc để gây rối tập đoàn.

Tuy nhiên, nàng không thành công. Rồi từ lúc về lại Giang Đông thì không thấy sử sách ghi thêm gì về nàng nữa, chỉ có Tam Quốc Diễn Nghĩa kể một kết thúc bi thương rằng Thượng Hương đã trầm mình tự vẫn khi nghe tin Lưu Bị chết giữa loạn quân. Vì vậy, trong một diễn biến khó lường nào đó, giữa Lưu hoàng thúc và Tôn tiểu muội vẫn có thể tồn tại một mối tình lâm li bi đát, yêu hận tình thù ngang trái thê lương như phim kiếm hiệp Hồng Kông hồi trước. Biết đâu đấy…

---------------------------

Chú thích và tham khảo:
[1] Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
[2] Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).


OB Ben

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016