Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016
Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016
Khám phá sao thủy và sao kim [HD - Vietsub]
Trinh Thanh
22:22
No comments
Khám phá những hành tinh bí ẩn trong hệ mặt trời. Sao thủy (Mercurius) và sao kim (venus) là 2 hành tinh trong hệ mặt trời. Nhưng những điều kiện thì hoàn toàn trái ngược nhau. Một nơi thì lạnh giá và thường xuyên hứng chịu những va va chạm của thiên thạch, một nơi thì nóng với những vụ phun trào núi lửa và những cơn bão cực lớn.
Full clip: https://youtu.be/4fkCvDg_9B8
Những điều kỳ lạ trong vũ trụ [Thuyết minh]
https://www.youtube.com/watch?v=2SkWT53V0XU
https://www.youtube.com/watch?v=2SkWT53V0XU
Liệu chúng ta có cô độc trong vũ trụ (The Universe Astrobiology)
https://www.youtube.com/watch?v=ORlF2QSET3s
https://www.youtube.com/watch?v=ORlF2QSET3s
Những hành tinh xa xôi (The Universe The Outer Planets 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=jhMVZ1gEDaQ
https://www.youtube.com/watch?v=jhMVZ1gEDaQ
Những vụ nổ siêu tân tinh - The Universe SuperNovas [1080]
https://www.youtube.com/watch?v=DQTWRUGUWQg
https://www.youtube.com/watch?v=DQTWRUGUWQg
Những vệ tinh xa lạ (The Universe Alien Moons) HD 1080i
https://www.youtube.com/watch?v=b63_x1NyaWk
https://www.youtube.com/watch?v=b63_x1NyaWk
Khám phá Dải Ngân Hà (The Universe The Milky Way 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=TyCvn8uafV4
https://www.youtube.com/watch?v=TyCvn8uafV4
Câu chuyện của những vì sao (The Universe Life And Death Of A Stars) - HD 1080
https://www.youtube.com/watch?v=qoA2X3c2c18
https://www.youtube.com/watch?v=qoA2X3c2c18
Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016
Thoát tim với du lịch hoa sơn
Trinh Thanh
05:43
No comments
Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016
Chuyện chưa tiết lộ trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni
Trinh Thanh
07:29
No comments
Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có gia phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa vùng Trung thổ bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.
Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?
Lão tử
“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán).
Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.
Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”.
Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.
Khổng Tử đến thỉnh giáo Lão Tử
Chuyen chua tiet lo trong lich su: Lao Tu, Khong Tu va Phat Thich Ca Mau Ni - Anh 5
Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng].
Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.
Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.
Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.
Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.
Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”.
Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”
Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.
Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.
Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.
Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.
Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.
Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.
Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.
Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.
Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.
Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.
Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.
Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.
Phật Thích Ca Mâu Ni
Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.
Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.
Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này.
Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo.
Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa.
Thích Ca Mâu
Lão Tử - Khổng Tử - Thích Ca Mâu Ni
Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?
Lão tử
Lão tử
“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán).
Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.
Lão tử |
Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”.
Khổng tử và lão tử |
Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.
Khổng Tử đến thỉnh giáo Lão Tử
Chuyen chua tiet lo trong lich su: Lao Tu, Khong Tu va Phat Thich Ca Mau Ni - Anh 5
Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng].
Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.
Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Khổng Tử
Khổng tử |
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.
Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.
Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.
Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”.
Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”
Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.
Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.
Khổng tử và các học trò |
Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.
Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.
Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.
Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.
Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.
Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.
Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.
Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.
Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.
Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.
Phật Thích Ca Mâu Ni
Phật Thích Ca Mâu Ni |
Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.
Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.
Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này.
Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo.
Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa.
Thích Ca Mâu
Khám phá sao mộc hành tinh khổng lồ [HD - Vietsub]
Trinh Thanh
03:58
No comments
Trpng vũ trụ Sao mộc và những vệ tinh của nó giống như một hệ mặt trời thu nhỏ trong hệ mặt trời của chúng ta. Trên sao mộc thường xảy ra những trận bão dữ dội. Cũng có thể đã từng tồn tại dấu hiệu sự sống trên một trong những vệ tinh (Europa) của sao mộc Và một điều thú vị không phải ai cũng biết đó là nếu có 1 cái hồ đủ lớn để chứa nó thì nó sẽ nổi trên mặt nước :D. Mời các bạn xem phim! Chúc các bạn có 1 ngày thật vui vẻ
clip khám phá khác:
Nicola Tesla Và những phát minh không tưởng
https://www.youtube.com/watch?v=4OPU8ejjwKU
Chiến tranh ngoài không gian trong tương lai - The Universe space wars [Thuyết Minh]
https://www.youtube.com/watch?v=eywY7_qH_lw
Ngày tàn của trái đất - End to the Earth [Thuyết minh] HD
https://www.youtube.com/watch?v=nM2eCUSNQ0I
Những điều kỳ lạ trong vũ trụ [Thuyết minh]
https://www.youtube.com/watch?v=2SkWT53V0XU
Liệu chúng ta có cô độc trong vũ trụ (The Universe Astrobiology)
https://www.youtube.com/watch?v=ORlF2QSET3s
Những hành tinh xa xôi (The Universe The Outer Planets 1080i)
https://www.youtube.com/watch?v=jhMVZ1gEDaQ
Những vụ nổ siêu tân tinh - The Universe SuperNovas [1080]
https://www.youtube.com/watch?v=DQTWRUGUWQg
Những vệ tinh xa lạ (The Universe Alien Moons) HD 1080i
https://www.youtube.com/watch?v=b63_x1NyaWk
Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016
Tổng hợp những chiếc xe kỳ lạ!
Trinh Thanh
10:30
No comments
Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2016
Quà tặng cuộc sống: Khó khăn chưa hẳn là thất bại
Trinh Thanh
06:13
No comments
Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016
Giải mã Tam quốc: Lưu Bị và đoạn kết một cuộc tình chính trị
Trinh Thanh
04:21
No comments
TPO - Hôn nhân chính trị vẫn là hôn nhân chính trị. Mỹ nữ Giang Đông Tôn Thượng Hương hoàn toàn có khả năng là một nước cờ cao tay mà Tôn Quyền cài vào bên cạnh Lưu Bị, hoặc để ám sát, hoặc để gây rối tập đoàn. Tuy nhiên, nàng không thành công...
Tôn Thượng Hương: “Chồng gì anh, vợ gì tôi?”
Sử liệu ghi chép về Tôn Thượng Hương không nhiều, nàng chỉ xuất hiện vài dòng trong Tam Quốc Chí: “Nguyên trước Tôn Quyền gả em gái cho Tiên chủ, Tôn phu nhân vốn là người tài giỏi, nhanh nhẹn cương mãnh, có phong thái của các anh” [1] và “Tôn phu nhân là em gái Quyền vốn kiêu căng, có nhiều binh tướng Ngô làm thủ hạ, thao túng ngang ngược chẳng có phép tắc.” [2]
Ngay cả danh tính cũng không rõ ràng, dân gian quen gọi nàng là Tôn Thượng Hương, xuất phát từ vở hí kịch “Cam Lộ Tự” của Trung Quốc. Trong khi sử sách chỉ ghi “Tôn phu nhân”, còn Tam Quốc Diễn Nghĩa nói nàng là Tôn Nhân, con gái vợ thứ của Tôn Kiên. Nhưng Tam Quốc Chí - Tôn Kiên truyện lại chú thích rằng: “Kiên có năm con trai: Sách, Quyền, Dực, Khuông là do vợ họ Ngô sinh; con út là Lãng, sinh về sau, còn có tên là Nhân.” Vậy Tôn Nhân là tên của con trai Tôn Kiên, chứ đâu phải con gái? Hy vọng đây là do La Quán Trung nhầm lẫn câu chữ, chứ không phải Tôn Quyền nhầm lẫn giới tính em mình.
Thêm vào đó, tính tình nàng cũng không được dịu dàng cho lắm. Không những mạnh mẽ, có phong thái của các anh, lại còn kè kè bên mình một dàn bảo kê đằng đằng sát khí: “Thị tì hơn trăm người đều quen cầm đao đứng hầu, Tiên chủ mỗi lần vào phòng đều thấy lạnh cả người.” [1]
Do vậy, tin rằng quan hệ của Thượng Hương và Lưu Bị đầy màu sắc chiến tranh chứ không phải tim hồng mặn nồng như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Bởi nếu đã tình chàng ý thiếp, tại sao lúc nào cũng có thị tì mang vũ khí đứng canh? Như thế thì Lưu hoàng thúc dù có gan hùm mật gấu, ôm ấp nhiều dự án khả thi đến đâu, cũng không thể nào triển khai trước mặt trăm người đang cầm đao cho được, chỉ đành mang một bụng ấm ức đến tìm Khổng Minh tâm sự. Cho nên Lượng mới biết rõ chủ công mình “sợ Tôn phu nhân sinh biến ngay sát nách.”
Vậy Thượng Hương đã làm gì mà Khổng Minh phải xem nàng như một thế lực đáng gờm?
Lưu Thiện: “Con suýt bị bắt cóc!”
Theo Vân biệt truyện, những ngày còn ở Kinh Châu, Thượng Hương và binh lính của nàng lộng hành ngang ngược đến mức Lưu Bị phải đặc biệt cắt cử Triệu Vân giám sát động tĩnh: “Tiên chủ thấy Vân nghiêm nghị cẩn trọng, tác phong đường hoàng, mới giao cho đặc trách chưởng quản nội sự.”
Nhưng khi Bị vừa nhấc chân vào Ích Châu, ở nhà lập tức có biến, chính là sự kiện Triệu Vân chặn sông giành A Đẩu nổi tiếng.
Đến đây, chúng ta có thể phớt lờ hình ảnh hiền lành ngây thơ của Thượng Hương trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, bởi như đã phân tích ở trên, nàng “dữ dội” thế cơ mà, không lý nào không hiểu ảnh hưởng nghiêm trọng của việc mang người kế thừa duy nhất lúc bấy giờ của Lưu Bị về Đông Ngô, lại càng không thể vô tư đến mức không báo cho Khổng Minh mà lén dẫn A Đẩu trốn đi.
Rất may, “Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về [2]. Nhưng phải huy động cả Triệu Vân lẫn Trương Phi, cộng thêm “giăng binh chẹn sông”, cho thấy việc giành A Đẩu về không hề dễ dàng, mà Thượng Hương cũng không đơn giản chỉ vô tình làm theo kế của anh mình.
Sau này, khi Bị xua quân đánh Đông Ngô trả thù cho Quan Vũ, La Quán Trung bảo rằng Quyền hứa trả lại Thượng Hương cho Bị. Nếu thật sự Quyền có nói như thế, chỉ e không phải đang giảng hòa, mà là đang chọc Bị nổi điên hơn nữa đó thôi. Trả gì không trả, lại trả quả bom hẹn giờ!
Đoạn kết cho một cuộc tình
Hôn nhân chính trị vẫn là hôn nhân chính trị, quá nhiều yếu tố bất lợi để một chuyện tình lãng mạn xảy ra trong bối cảnh chiến trường ngày đó. Tôn Thượng Hương hoàn toàn có khả năng là một nước cờ cao tay mà Tôn Quyền cài vào bên cạnh Lưu Bị, hoặc để ám sát, hoặc để gây rối tập đoàn.
Tuy nhiên, nàng không thành công. Rồi từ lúc về lại Giang Đông thì không thấy sử sách ghi thêm gì về nàng nữa, chỉ có Tam Quốc Diễn Nghĩa kể một kết thúc bi thương rằng Thượng Hương đã trầm mình tự vẫn khi nghe tin Lưu Bị chết giữa loạn quân. Vì vậy, trong một diễn biến khó lường nào đó, giữa Lưu hoàng thúc và Tôn tiểu muội vẫn có thể tồn tại một mối tình lâm li bi đát, yêu hận tình thù ngang trái thê lương như phim kiếm hiệp Hồng Kông hồi trước. Biết đâu đấy…
---------------------------
Chú thích và tham khảo:
[1] Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
[2] Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
Lưu Bị mỗi lần vào phòng đều được “tiếp đón” bằng đao kiếm.
Tôn Thượng Hương: “Chồng gì anh, vợ gì tôi?”
Sử liệu ghi chép về Tôn Thượng Hương không nhiều, nàng chỉ xuất hiện vài dòng trong Tam Quốc Chí: “Nguyên trước Tôn Quyền gả em gái cho Tiên chủ, Tôn phu nhân vốn là người tài giỏi, nhanh nhẹn cương mãnh, có phong thái của các anh” [1] và “Tôn phu nhân là em gái Quyền vốn kiêu căng, có nhiều binh tướng Ngô làm thủ hạ, thao túng ngang ngược chẳng có phép tắc.” [2]
Ngay cả danh tính cũng không rõ ràng, dân gian quen gọi nàng là Tôn Thượng Hương, xuất phát từ vở hí kịch “Cam Lộ Tự” của Trung Quốc. Trong khi sử sách chỉ ghi “Tôn phu nhân”, còn Tam Quốc Diễn Nghĩa nói nàng là Tôn Nhân, con gái vợ thứ của Tôn Kiên. Nhưng Tam Quốc Chí - Tôn Kiên truyện lại chú thích rằng: “Kiên có năm con trai: Sách, Quyền, Dực, Khuông là do vợ họ Ngô sinh; con út là Lãng, sinh về sau, còn có tên là Nhân.” Vậy Tôn Nhân là tên của con trai Tôn Kiên, chứ đâu phải con gái? Hy vọng đây là do La Quán Trung nhầm lẫn câu chữ, chứ không phải Tôn Quyền nhầm lẫn giới tính em mình.
Thêm vào đó, tính tình nàng cũng không được dịu dàng cho lắm. Không những mạnh mẽ, có phong thái của các anh, lại còn kè kè bên mình một dàn bảo kê đằng đằng sát khí: “Thị tì hơn trăm người đều quen cầm đao đứng hầu, Tiên chủ mỗi lần vào phòng đều thấy lạnh cả người.” [1]
Do vậy, tin rằng quan hệ của Thượng Hương và Lưu Bị đầy màu sắc chiến tranh chứ không phải tim hồng mặn nồng như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Bởi nếu đã tình chàng ý thiếp, tại sao lúc nào cũng có thị tì mang vũ khí đứng canh? Như thế thì Lưu hoàng thúc dù có gan hùm mật gấu, ôm ấp nhiều dự án khả thi đến đâu, cũng không thể nào triển khai trước mặt trăm người đang cầm đao cho được, chỉ đành mang một bụng ấm ức đến tìm Khổng Minh tâm sự. Cho nên Lượng mới biết rõ chủ công mình “sợ Tôn phu nhân sinh biến ngay sát nách.”
Vậy Thượng Hương đã làm gì mà Khổng Minh phải xem nàng như một thế lực đáng gờm?
Trong phim, Tôn Thượng Hương bị giành lại A Đẩu thì rút kiếm dọa tự sát, nhưng trong sử không chừng ngược lại.
Lưu Thiện: “Con suýt bị bắt cóc!”
Theo Vân biệt truyện, những ngày còn ở Kinh Châu, Thượng Hương và binh lính của nàng lộng hành ngang ngược đến mức Lưu Bị phải đặc biệt cắt cử Triệu Vân giám sát động tĩnh: “Tiên chủ thấy Vân nghiêm nghị cẩn trọng, tác phong đường hoàng, mới giao cho đặc trách chưởng quản nội sự.”
Nhưng khi Bị vừa nhấc chân vào Ích Châu, ở nhà lập tức có biến, chính là sự kiện Triệu Vân chặn sông giành A Đẩu nổi tiếng.
Đến đây, chúng ta có thể phớt lờ hình ảnh hiền lành ngây thơ của Thượng Hương trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, bởi như đã phân tích ở trên, nàng “dữ dội” thế cơ mà, không lý nào không hiểu ảnh hưởng nghiêm trọng của việc mang người kế thừa duy nhất lúc bấy giờ của Lưu Bị về Đông Ngô, lại càng không thể vô tư đến mức không báo cho Khổng Minh mà lén dẫn A Đẩu trốn đi.
Rất may, “Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về [2]. Nhưng phải huy động cả Triệu Vân lẫn Trương Phi, cộng thêm “giăng binh chẹn sông”, cho thấy việc giành A Đẩu về không hề dễ dàng, mà Thượng Hương cũng không đơn giản chỉ vô tình làm theo kế của anh mình.
Rất may, “Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về
Sau này, khi Bị xua quân đánh Đông Ngô trả thù cho Quan Vũ, La Quán Trung bảo rằng Quyền hứa trả lại Thượng Hương cho Bị. Nếu thật sự Quyền có nói như thế, chỉ e không phải đang giảng hòa, mà là đang chọc Bị nổi điên hơn nữa đó thôi. Trả gì không trả, lại trả quả bom hẹn giờ!
Đoạn kết cho một cuộc tình
Hôn nhân chính trị vẫn là hôn nhân chính trị, quá nhiều yếu tố bất lợi để một chuyện tình lãng mạn xảy ra trong bối cảnh chiến trường ngày đó. Tôn Thượng Hương hoàn toàn có khả năng là một nước cờ cao tay mà Tôn Quyền cài vào bên cạnh Lưu Bị, hoặc để ám sát, hoặc để gây rối tập đoàn.
Tuy nhiên, nàng không thành công. Rồi từ lúc về lại Giang Đông thì không thấy sử sách ghi thêm gì về nàng nữa, chỉ có Tam Quốc Diễn Nghĩa kể một kết thúc bi thương rằng Thượng Hương đã trầm mình tự vẫn khi nghe tin Lưu Bị chết giữa loạn quân. Vì vậy, trong một diễn biến khó lường nào đó, giữa Lưu hoàng thúc và Tôn tiểu muội vẫn có thể tồn tại một mối tình lâm li bi đát, yêu hận tình thù ngang trái thê lương như phim kiếm hiệp Hồng Kông hồi trước. Biết đâu đấy…
---------------------------
Chú thích và tham khảo:
[1] Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
[2] Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
OB Ben
Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016
Khám phá sự hình thành hệ mặt trời
Trinh Thanh
23:01
No comments
Bài học kinh doanh: Để có được nhân tài
Trinh Thanh
10:30
1 comment
Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016
Khám Phá top 10 vụ nổ kinh hoàng trong vũ trụ
Trinh Thanh
06:38
No comments
Khám phá bảng xếp hạng Top 10 vụ nổ xếp hạng các vụ nổ kinh khủng nhất xảy ra trong vũ trụ. Vụ nổ đứng cuối bảng cũng đủ xóa sổ nhân loại và nền văn minh trên trái đất....
Giải mã đại nghi án thời Tam Quốc
Trinh Thanh
06:35
No comments
Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Ngụy Diên là một phần tử kiên quyết chống Tào Ngụy, Gia Cát Lượng dự đoán sau khi ông qua đời Ngụy Diên cũng không từ bỏ cuộc chiến Bắc phạt, kiên trì đến cùng.
Tuy nhiên, Gia Cát Lượng rất hiểu Diên có tính tự cao tự đại, coi mình hơn người nhưng vì sợ uy danh Thừa tướng nên không dám làm bừa. Nếu Gia Cát Lượng qua đời thì Dương Nghi sao quản được Diên?
Cái chết oan ức
Ngụy Diên mưu phản là một đại nghi án của thời Tam Quốc. Đoạn lịch sử này có nhiều cách nói khác nhau: Có người cho rằng Diên là người trung thành, vô cớ bị hại chết; cũng có người cho Ngụy Diên là “loạn thần tặc tử”, bị giết là đáng; lại có người coi đó là cái vòng luẩn quẩn do Gia Cát Lượng... tự vẽ ra. Thế thì, Ngụy Diên rốt cục có mưu phản thật không?
Năm 223 sau Công Nguyên, Lưu Bị chết ở cung Vĩnh An, chính quyền Thục Hán bước vào một thời kỳ rắc rối đa sự. Mã Tốc bị chém vì để mất Nhai Đình, sau đến Lý Nghiêm bị phế, rồi Ngụy Diên mưu phản đã gây chấn động chính trường.
Về việc Ngụy Diên mưu phản, ấn tượng nhất có lẽ là do những mô tả trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa” nói ông có cái “phản cốt” sau gáy, trước sau gì tất cũng làm phản. Thực tế có chuyện đó hay không?
Năm 234, Gia Cát Lượng Bắc phạt lần thứ 5, do mệt mỏi lao lực sinh bệnh, chết trong doanh trại ở Ngũ Trượng Nguyên. Theo “Tam Quốc Chí. Ngụy Diên truyện”, trước khi chết, Gia Cát Lượng bí mật triệu tập Dương Nghi, Khương Duy, Phí Vĩ rồi di mệnh: Sau khi ông chết, không nên tiếp tục Bắc phạt mà rút hết quân về Thục; khi rút, để Ngụy Diên đi đoạn hậu rồi đến Khương Duy.
Khổng Minh dặn “nếu Diên không phục tùng mệnh lệnh thì kệ hắn, cứ việc rút quân”. Sau khi Gia Cát Lượng tắt thở, Phí Vĩ truyền đạt mệnh lệnh cho Diên, quả nhiên Diên nhảy dựng lên: “Bắt ta đoạn hậu ư? Không được! Thừa tướng chết, nhưng Ngụy Diên ta còn đây, sẽ tiếp tục lãnh đạo quân đội Bắc phạt.
Vì sao một người chết mà phải gác lại việc lớn của thiên hạ? Mà Ngụy Diên ta cớ gì phải đoạn hậu cho Dương Nghi kia chứ?” rồi kiên quyết yêu cầu Phí Vĩ tiếp tục Bắc phạt. Vĩ lấy cớ đi khuyên bảo Dương Nghi, nhảy lên ngựa quay đầu chạy biến.
Ngụy Diên khi đó mới nghĩ ra là không nên thả cho Phí Vĩ đi, vội cho thám tử dò xét. Thám tử về báo Dương Nghi tuân theo sắp đặt của Gia Cát Lượng, đã dẫn đại quân rút về Thành Đô.
Ngụy Diên nộ hỏa xung thiên: “Ngươi rút, ta cũng rút!” Thế là Diên dẫn quân chạy về phía Nam vượt lên trước đoàn quân của Nghi, vừa chạy vừa phá cầu, về đến cửa Nam Cốc. Dương Nghi trên đường dẫn quân rút lui thấy cầu đều bị phá, hai người tích oán đã lâu nay càng thêm chồng chất; thế là đều viết thư gửi về triều đình tố cáo đối phương mưu phản.
Hai bức thư tố cáo nhau đều tới tay hậu chủ Lưu Thiền. Lưu Thiền xem thư không hiểu, bèn hỏi Đổng Doãn, Tưởng Uyển: Rốt cục ai là kẻ mưu phản? Hai người nói: “Bệ hạ! Thần dám đảm bảo chắc chắn Dương Nghi không mưu phản; còn Ngụy Diên có phản hay không thì không dám chắc”.
Thế là Lưu Thiền lệnh cho Tưởng Uyển dẫn quân túc vệ lên phía Bắc chặn Ngụy Diên, Dương Nghi cũng dẫn quân xuống phía Nam truy kích Diên. Hai đạo quân vây chặt quân của Diên ở cửa Nam Cốc.
Ngụy Diên dẫn mấy tướng tâm phúc chạy đến Hán Trung, bị Mã Đại giết chết, xách thủ cấp đến dâng trước mặt Dương Nghi. Dương Nghi quẳng đầu Ngụy Diên xuống đất, dùng chân đạp, sau đó tru di tam tộc Ngụy Diên.
Phản biến thực chất là nội loạn
Nhà bình luận Tam Quốc nổi tiếng Trung Quốc Dịch Trung Thiên cho rằng, phán xét Ngụy Diên mưu phản là “vô duyên vô cớ, chẳng có bằng chứng, không hợp logic”.
Phục tùng là thiên chức của quân nhân, nếu Gia Cát Lượng đã hạ lệnh đoạn hậu, thì Diên phải phục tùng, sao có thể tự hành động, kéo quân về phía Nam? Định rút về Thành Đô hay muốn lật đổ chính quyền Thục Hán?
Chẳng ai làm rõ được! Mà vì sao lại phá đường rút của Dương Nghi bởi dễ khiến hiểu lầm Ngụy Diên mưu phản. Để tránh Dương Nghi cứu giá mới phá hoại cầu đường. Vì vậy Ngụy Diên đã bị vu vạ một cách vô cớ.
Càng không hợp logic ở chỗ Ngụy Diên lúc đó cả về tài năng thực lực đều thiếu, không đủ để xưng vương xưng đế. Nếu mưu phản, Diên chỉ có theo hàng Tào Ngụy và phải chạy ngay sang phía đối diện, chẳng có lý do gì phải dẫn quân Nam hạ.
Cho nên Trần Thọ suy đoán: Bản ý Ngụy Diên không phải hàng Tào Ngụy mà muốn giết chết Dương Nghi. Với vị trí, uy danh, công lao của Ngụy Diên khi đó, nếu giết Dương Nghi thì chỉ có Diên là người kế tục Gia Cát Lượng; như thế thì có thể tiếp tục Bắc phạt. Vì thế có thể kết luận: Vụ án Ngụy Diên không phải là mưu phản mà là nội loạn, là chuyện mâu thuẫn nội bộ giữa Ngụy Diên và Dương Nghi!
Dương Nghi sau khi rút về Thành Đô rất tự đắc, cho rằng mình dẫn được quân đội bình an trở về theo ý Thừa tướng, lại giết được Ngụy Diên, vất vả mà không được thưởng công, cần phải được thăng quan gia tước.
Thế nhưng, người được chọn kế thừa chức vụ Gia Cát Lượng lại là Tưởng Uyển thua kém mình, Dương Nghi bị cho ngồi chơi xơi nước, chẳng quyền lực cũng không có quân, nên bụng đầy oán giận. Khi Phí Vĩ đến an ủi, Dương Nghi nói ra miệng: “Biết thế này, chẳng thà theo Ngụy Diên tạo phản cho xong”.
Phí Vĩ đem những lời đó về báo triều đình trao cho Nghi chức tước cao hơn, Dương Nghi vẫn không an phận, tiếp tục oán trách, phỉ báng triều đình, cuối cùng tự sát mà chết. Cho nên kết quả của mối bất hòa Ngụy Diên – Dương Nghi là cả hai cùng chết.
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của Ngụy Diên?
Các nhà sử học phần lớn đều cho rằng Dương Nghi là kẻ phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án oan Ngụy Diên do ân oán cá nhân, giết chết một đại tướng của nước Thục, tội lớn hơn tội Diên nhiều. Ngụy Diên lập nhiều công lao to lớn với chính quyền Thục Hán, không có sai sót gì, chịu tiếng xấu oan ức, thậm chí bị tru di tam tộc, lượng hình nặng đến thế đều do một tay Dương Nghi mà ra.
Nhưng Dương Nghi cũng oan ức vì chỉ triệt thoái theo lệnh của Gia Cát Lượng. Thế thì trách nhiệm thuộc về Ngụy Diên sao?. Theo “Tam Quốc Chí. Ngụy Diên truyện”, Bùi Tùng Chi chú dẫn sách “Ngụy lược” cho biết, Gia Cát Lượng cũng trao cho Ngụy Diên một mật lệnh, cho Diên thay chức ông để đưa tang về Thành Đô.
Thế thì trách nhiệm phải truy đến Gia Cát Lượng: Cố ý ra hai mật lệnh, chẳng phải nhằm xúi hai bên chống nhau sao? Cho nên có sử gia cho rằng, vụ án oan Ngụy Diên là do Gia Cát Lượng một tay dựng lên.
Nhưng học giả Dịch Trung Thiên cho rằng, cách nói của “Ngụy lược” không đáng tin, Bùi Tùng Chi cũng chỉ viết “Đó là tin từ phía nước địch”. Bởi Ngụy Diên không ở bên cạnh, sao Diên có thể hộ tống linh cữu Gia Cát Lượng về Nam?
Vả lại theo “Ngụy lược”, sau khi Ngụy Diên về đến cửa Nam Cốc, Dương Nghi dâng thư nói Diên chuẩn bị đầu hàng Tào Ngụy. Nếu muốn hàng Tào thì phải đi ngược lên phía Bắc chứ sao lại xuống phía Nam? Vì vậy cũng không thể nói Gia Cát Lượng đã hoạch định vụ án oan này được.
Vụ án Ngụy Diên mưu phản rốt cục là thế nào, cần phải quay lại phân tích di mệnh của Gia Cát Lượng. Vì sao ông ra lệnh để Diên đoạn hậu? Có ý kiến nói là bởi giữa hai người có bất đồng về quân sự. Ngụy Diên từng đề xuất với Gia Cát Lượng mưu kế đi tắt qua hang Tý Ngọ. Đó là một “kỳ mưu” chiến lược, chẳng khác nào Hàn Tín “ám độ Trần Thương” khi xưa, tuy mạo hiểm nhưng “xuất kỳ chế thắng”. Thế nhưng Gia Cát Lượng không dùng mưu đó.
Bắc phạt là sự nghiệp quan trọng của Gia Cát Lượng sau khi Lưu Bị chết, nhưng sự nghiệp đó dây dưa mãi không thành. Dịch Trung Thiên cho rằng: Bắc phạt không thể thắng lợi được do 3 nguyên do: “Tào Ngụy không thể suy vong nhanh, Ích Châu không phải đất tiến thủ, Gia Cát không có tài chiến lược”.
Gia Cát Lượng biết rõ, ông kiên trì Bắc phạt là muốn chuyển mâu thuẫn nội bộ của Thục Hán ra chiến tranh, dùng Bắc phạt để chấn hưng sĩ khí, quan trọng hơn là Gia Cát Lượng không muốn giao quyền quản lý chính trị cho ai, Ngụy Diên là mãnh tướng duy nhất của Thục Hán thời kỳ này, rất có thể là người kế thừa sự nghiệp Bắc phạt sau khi ông chết.
Gia Cát Lượng biết rõ Ngụy Diên sẽ không từ bỏ việc Bắc phạt; ông cũng rất hiểu Diên tự cao tự đại, luôn đặt mình cao nhất, nếu ông qua đời tất không coi bọn Dương Nghi ra gì, đám này tất sẽ phải theo Diên.
Với Gia Cát Lượng, việc quan trọng hàng đầu lúc đó là nhanh chóng đưa đại quân về Thành Đô để bảo vệ chính quyền Thục Hán. Chỉ có giữ được Thục Hán, sau này mới có cơ phục hưng nhà Hán. Đó là điều Gia Cát Lượng đau đáu tâm can, cho đến khi lâm chung vẫn nghĩ đến việc giữ lấy Thục Hán. Nhưng, 30 năm sau khi ông qua đời, Thục Hán đã bị diệt vong...
Tuy nhiên, Gia Cát Lượng rất hiểu Diên có tính tự cao tự đại, coi mình hơn người nhưng vì sợ uy danh Thừa tướng nên không dám làm bừa. Nếu Gia Cát Lượng qua đời thì Dương Nghi sao quản được Diên?
Cái chết oan ức
Ngụy Diên mưu phản là một đại nghi án của thời Tam Quốc. Đoạn lịch sử này có nhiều cách nói khác nhau: Có người cho rằng Diên là người trung thành, vô cớ bị hại chết; cũng có người cho Ngụy Diên là “loạn thần tặc tử”, bị giết là đáng; lại có người coi đó là cái vòng luẩn quẩn do Gia Cát Lượng... tự vẽ ra. Thế thì, Ngụy Diên rốt cục có mưu phản thật không?
Năm 223 sau Công Nguyên, Lưu Bị chết ở cung Vĩnh An, chính quyền Thục Hán bước vào một thời kỳ rắc rối đa sự. Mã Tốc bị chém vì để mất Nhai Đình, sau đến Lý Nghiêm bị phế, rồi Ngụy Diên mưu phản đã gây chấn động chính trường.
Về việc Ngụy Diên mưu phản, ấn tượng nhất có lẽ là do những mô tả trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa” nói ông có cái “phản cốt” sau gáy, trước sau gì tất cũng làm phản. Thực tế có chuyện đó hay không?
Năm 234, Gia Cát Lượng Bắc phạt lần thứ 5, do mệt mỏi lao lực sinh bệnh, chết trong doanh trại ở Ngũ Trượng Nguyên. Theo “Tam Quốc Chí. Ngụy Diên truyện”, trước khi chết, Gia Cát Lượng bí mật triệu tập Dương Nghi, Khương Duy, Phí Vĩ rồi di mệnh: Sau khi ông chết, không nên tiếp tục Bắc phạt mà rút hết quân về Thục; khi rút, để Ngụy Diên đi đoạn hậu rồi đến Khương Duy.
Khổng Minh dặn “nếu Diên không phục tùng mệnh lệnh thì kệ hắn, cứ việc rút quân”. Sau khi Gia Cát Lượng tắt thở, Phí Vĩ truyền đạt mệnh lệnh cho Diên, quả nhiên Diên nhảy dựng lên: “Bắt ta đoạn hậu ư? Không được! Thừa tướng chết, nhưng Ngụy Diên ta còn đây, sẽ tiếp tục lãnh đạo quân đội Bắc phạt.
Vì sao một người chết mà phải gác lại việc lớn của thiên hạ? Mà Ngụy Diên ta cớ gì phải đoạn hậu cho Dương Nghi kia chứ?” rồi kiên quyết yêu cầu Phí Vĩ tiếp tục Bắc phạt. Vĩ lấy cớ đi khuyên bảo Dương Nghi, nhảy lên ngựa quay đầu chạy biến.
Ngụy Diên khi đó mới nghĩ ra là không nên thả cho Phí Vĩ đi, vội cho thám tử dò xét. Thám tử về báo Dương Nghi tuân theo sắp đặt của Gia Cát Lượng, đã dẫn đại quân rút về Thành Đô.
Ngụy Diên nộ hỏa xung thiên: “Ngươi rút, ta cũng rút!” Thế là Diên dẫn quân chạy về phía Nam vượt lên trước đoàn quân của Nghi, vừa chạy vừa phá cầu, về đến cửa Nam Cốc. Dương Nghi trên đường dẫn quân rút lui thấy cầu đều bị phá, hai người tích oán đã lâu nay càng thêm chồng chất; thế là đều viết thư gửi về triều đình tố cáo đối phương mưu phản.
Hai bức thư tố cáo nhau đều tới tay hậu chủ Lưu Thiền. Lưu Thiền xem thư không hiểu, bèn hỏi Đổng Doãn, Tưởng Uyển: Rốt cục ai là kẻ mưu phản? Hai người nói: “Bệ hạ! Thần dám đảm bảo chắc chắn Dương Nghi không mưu phản; còn Ngụy Diên có phản hay không thì không dám chắc”.
Thế là Lưu Thiền lệnh cho Tưởng Uyển dẫn quân túc vệ lên phía Bắc chặn Ngụy Diên, Dương Nghi cũng dẫn quân xuống phía Nam truy kích Diên. Hai đạo quân vây chặt quân của Diên ở cửa Nam Cốc.
Ngụy Diên dẫn mấy tướng tâm phúc chạy đến Hán Trung, bị Mã Đại giết chết, xách thủ cấp đến dâng trước mặt Dương Nghi. Dương Nghi quẳng đầu Ngụy Diên xuống đất, dùng chân đạp, sau đó tru di tam tộc Ngụy Diên.
Phản biến thực chất là nội loạn
Nhà bình luận Tam Quốc nổi tiếng Trung Quốc Dịch Trung Thiên cho rằng, phán xét Ngụy Diên mưu phản là “vô duyên vô cớ, chẳng có bằng chứng, không hợp logic”.
Phục tùng là thiên chức của quân nhân, nếu Gia Cát Lượng đã hạ lệnh đoạn hậu, thì Diên phải phục tùng, sao có thể tự hành động, kéo quân về phía Nam? Định rút về Thành Đô hay muốn lật đổ chính quyền Thục Hán?
Chẳng ai làm rõ được! Mà vì sao lại phá đường rút của Dương Nghi bởi dễ khiến hiểu lầm Ngụy Diên mưu phản. Để tránh Dương Nghi cứu giá mới phá hoại cầu đường. Vì vậy Ngụy Diên đã bị vu vạ một cách vô cớ.
Càng không hợp logic ở chỗ Ngụy Diên lúc đó cả về tài năng thực lực đều thiếu, không đủ để xưng vương xưng đế. Nếu mưu phản, Diên chỉ có theo hàng Tào Ngụy và phải chạy ngay sang phía đối diện, chẳng có lý do gì phải dẫn quân Nam hạ.
Cho nên Trần Thọ suy đoán: Bản ý Ngụy Diên không phải hàng Tào Ngụy mà muốn giết chết Dương Nghi. Với vị trí, uy danh, công lao của Ngụy Diên khi đó, nếu giết Dương Nghi thì chỉ có Diên là người kế tục Gia Cát Lượng; như thế thì có thể tiếp tục Bắc phạt. Vì thế có thể kết luận: Vụ án Ngụy Diên không phải là mưu phản mà là nội loạn, là chuyện mâu thuẫn nội bộ giữa Ngụy Diên và Dương Nghi!
Dương Nghi sau khi rút về Thành Đô rất tự đắc, cho rằng mình dẫn được quân đội bình an trở về theo ý Thừa tướng, lại giết được Ngụy Diên, vất vả mà không được thưởng công, cần phải được thăng quan gia tước.
Thế nhưng, người được chọn kế thừa chức vụ Gia Cát Lượng lại là Tưởng Uyển thua kém mình, Dương Nghi bị cho ngồi chơi xơi nước, chẳng quyền lực cũng không có quân, nên bụng đầy oán giận. Khi Phí Vĩ đến an ủi, Dương Nghi nói ra miệng: “Biết thế này, chẳng thà theo Ngụy Diên tạo phản cho xong”.
Phí Vĩ đem những lời đó về báo triều đình trao cho Nghi chức tước cao hơn, Dương Nghi vẫn không an phận, tiếp tục oán trách, phỉ báng triều đình, cuối cùng tự sát mà chết. Cho nên kết quả của mối bất hòa Ngụy Diên – Dương Nghi là cả hai cùng chết.
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của Ngụy Diên?
Các nhà sử học phần lớn đều cho rằng Dương Nghi là kẻ phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án oan Ngụy Diên do ân oán cá nhân, giết chết một đại tướng của nước Thục, tội lớn hơn tội Diên nhiều. Ngụy Diên lập nhiều công lao to lớn với chính quyền Thục Hán, không có sai sót gì, chịu tiếng xấu oan ức, thậm chí bị tru di tam tộc, lượng hình nặng đến thế đều do một tay Dương Nghi mà ra.
Nhưng Dương Nghi cũng oan ức vì chỉ triệt thoái theo lệnh của Gia Cát Lượng. Thế thì trách nhiệm thuộc về Ngụy Diên sao?. Theo “Tam Quốc Chí. Ngụy Diên truyện”, Bùi Tùng Chi chú dẫn sách “Ngụy lược” cho biết, Gia Cát Lượng cũng trao cho Ngụy Diên một mật lệnh, cho Diên thay chức ông để đưa tang về Thành Đô.
Thế thì trách nhiệm phải truy đến Gia Cát Lượng: Cố ý ra hai mật lệnh, chẳng phải nhằm xúi hai bên chống nhau sao? Cho nên có sử gia cho rằng, vụ án oan Ngụy Diên là do Gia Cát Lượng một tay dựng lên.
Nhưng học giả Dịch Trung Thiên cho rằng, cách nói của “Ngụy lược” không đáng tin, Bùi Tùng Chi cũng chỉ viết “Đó là tin từ phía nước địch”. Bởi Ngụy Diên không ở bên cạnh, sao Diên có thể hộ tống linh cữu Gia Cát Lượng về Nam?
Vả lại theo “Ngụy lược”, sau khi Ngụy Diên về đến cửa Nam Cốc, Dương Nghi dâng thư nói Diên chuẩn bị đầu hàng Tào Ngụy. Nếu muốn hàng Tào thì phải đi ngược lên phía Bắc chứ sao lại xuống phía Nam? Vì vậy cũng không thể nói Gia Cát Lượng đã hoạch định vụ án oan này được.
Vụ án Ngụy Diên mưu phản rốt cục là thế nào, cần phải quay lại phân tích di mệnh của Gia Cát Lượng. Vì sao ông ra lệnh để Diên đoạn hậu? Có ý kiến nói là bởi giữa hai người có bất đồng về quân sự. Ngụy Diên từng đề xuất với Gia Cát Lượng mưu kế đi tắt qua hang Tý Ngọ. Đó là một “kỳ mưu” chiến lược, chẳng khác nào Hàn Tín “ám độ Trần Thương” khi xưa, tuy mạo hiểm nhưng “xuất kỳ chế thắng”. Thế nhưng Gia Cát Lượng không dùng mưu đó.
Bắc phạt là sự nghiệp quan trọng của Gia Cát Lượng sau khi Lưu Bị chết, nhưng sự nghiệp đó dây dưa mãi không thành. Dịch Trung Thiên cho rằng: Bắc phạt không thể thắng lợi được do 3 nguyên do: “Tào Ngụy không thể suy vong nhanh, Ích Châu không phải đất tiến thủ, Gia Cát không có tài chiến lược”.
Gia Cát Lượng biết rõ, ông kiên trì Bắc phạt là muốn chuyển mâu thuẫn nội bộ của Thục Hán ra chiến tranh, dùng Bắc phạt để chấn hưng sĩ khí, quan trọng hơn là Gia Cát Lượng không muốn giao quyền quản lý chính trị cho ai, Ngụy Diên là mãnh tướng duy nhất của Thục Hán thời kỳ này, rất có thể là người kế thừa sự nghiệp Bắc phạt sau khi ông chết.
Gia Cát Lượng biết rõ Ngụy Diên sẽ không từ bỏ việc Bắc phạt; ông cũng rất hiểu Diên tự cao tự đại, luôn đặt mình cao nhất, nếu ông qua đời tất không coi bọn Dương Nghi ra gì, đám này tất sẽ phải theo Diên.
Với Gia Cát Lượng, việc quan trọng hàng đầu lúc đó là nhanh chóng đưa đại quân về Thành Đô để bảo vệ chính quyền Thục Hán. Chỉ có giữ được Thục Hán, sau này mới có cơ phục hưng nhà Hán. Đó là điều Gia Cát Lượng đau đáu tâm can, cho đến khi lâm chung vẫn nghĩ đến việc giữ lấy Thục Hán. Nhưng, 30 năm sau khi ông qua đời, Thục Hán đã bị diệt vong...
GoAR - Using iPhone camera to find Pokemon
Trinh Thanh
04:56
No comments
Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016
Google xây dựng tuyến cáp quang biển mới, đứt cáp sẽ không còn là mối lo ngại
Trinh Thanh
11:58
No comments
Tuyến cáp quang mới sẽ mang tên Faster với năng lực truyền tải dữ liệu cao nhất lên đến 60 terabyte/s.
Vừa qua, Google đã phối hợp cùng với 5 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn tại Châu Á bao gồm China Mobile International, China Telecom Global (Trung Quốc), Global Transit (Malaysia), KDDI (Nhật) và SingTel (Singapore) nhằm xây dựng một tuyến cáp quang ngầm dưới biển từ Mỹ đến Nhật để tăng băng thông truy cập mạng của người dùng Internet tại nhiều nơi trên thế giới. Tuyến cáp quang mới sẽ mang tên Faster với năng lực truyền tải dữ liệu cao nhất lên đến 60 terabyte/s.
Working on undersea cable
Faster sẽ giúp các công ty kết nối các trung tâm dữ liệu của mình ở Mỹ và ở Châu Á hiệu quả hơn cũng như hỗ trợ nhu cầu trao đổi dữ liệu trong nội bộ Google xuyên qua nhiều châu lục. Ngoài ra, việc xây dựng Faster sẽ có thể tăng tốc độ kết nối Internet cho châu Á và toàn thế giới bên cạnh kết nối riêng giữa Nhật Bản và Mỹ. Đồng nghĩa rằng tình trạng đau đầu và bực mình khi lướt web mỗi đứt cáp của người dùng Việt sẽ được giảm thiểu đáng kể.
Faster đã bắt đầu được xây dưng và dự kiến sẽ hoàn tất trong năm 2016 với tổng số vốn đầu tư lên tới 300 triệu USD.
Theo Trí Thức Trẻ
Tham khảo: Engadget
Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016
Giải mã thời Tam quốc: Tôn Kiên và thực hư chuyện ngọc tỷ
Trinh Thanh
12:38
No comments
TPO - Cuộc chiến với Đổng Trác đã giúp nâng tầm vóc của Tôn Kiên lên hàng một năng thần. Tham gia liên quân phạt Đổng, Tôn Kiên đã cho cả thiên hạ thấy rằng, thế nào mới là một trung thần mẫu mực, thế nào mới là một thần tử đúng nghĩa.
Phê Viên Thuật, diệt Vương Duệ, chém Trương Tư
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn đánh Đổng Trác trừ hại cho thiên hạ là Tôn Kiên và Tào Tháo, nhưng hai người này cũng gặp không ít gian nan. Nếu như Tào Tháo hô hào không được ai hưởng ứng, xuất kế đánh địch không có ai ủng hộ, bị đám chư hầu “chỉ biết nói suông” kia làm cho tức chết, thì Tôn Kiên cũng không khá hơn. Ông bị đám người cùng trận tuyến khinh thường coi rẻ, không cấp quân lương, không hỗ trợ.
Thế nhưng cách mà Tào-Tôn phản ứng lại cũng khác nhau. Tào Tháo nói không ai nghe cũng không biết làm sao, thua trận thì quay về căn cứ. Còn Tôn Kiên thua thì phải đánh cho thắng mới dừng, kẻ nào không chịu hỗ trợ, không chịu phối hợp thì phê bình nghiêm khắc, thậm chí tiêu diệt!
Tác phong táo bạo quyết đoán và triệt để này chính là đặc trưng của Tôn Kiên, mà sau này cũng được Tôn gia kế thừa. Viên huyện lại mười bảy tuổi Tôn Kiên ở sông Tiền Đường năm nào dám một mình hù dọa cả trăm tên hải tặc, viên Tư mã Tôn Văn Đài dũng cảm xung phong leo lên thành trì phá giặc làm gương cho binh sĩ, cũng phảng phất cái oai hùng dũng liệt của Tiểu Bá Vương Tôn Sách một ngựa một thương tung hoành Giang Đông sau này.
Với cá tính quyết liệt và triệt để đó, ai dám cản trở quyết tâm của Tôn Kiên đương nhiên sẽ bị tiêu diệt. Thứ sử Kinh Châu Vương Duệ dám “nói năng vô lễ”, Thái thú Nam Dương Trương Tư “đường xá chưa tu sửa, quân tư trang không đầy đủ”, “không cấp quân lương” [1], đều bị Kiên giết chết. Một kẻ có quyền lực khác, quân hàm rất cao, gia thế rất mạnh là Hậu Tướng quân Viên Thuật cũng bị Kiên phê bình nghiêm khắc.
Vốn là sau Tôn Kiên khi đại phá Đổng Trác, chém đầu Hoa Hùng ở Dương Nhân, thì Viên Thuật nghe lời gièm pha của người khác nên không chuyển quân lương cho Kiên nữa. Tôn Kiên hết sức quyết liệt và khẩn trương, ngay trong đêm phi ngựa hơn trăm dặm (hơn 50 km) về Lỗ Dương trách cứ Viên Thuật, lời lẽ hết sức minh bạch rõ ràng: “Ta sở dĩ đem thân xông xáo chẳng hề đoái hoài đến mình” như vậy là có hai lí do: “trên vì quốc gia đánh giặc”, mà “dưới vì tư thù của gia tộc tướng quân” (Đổng Trác nghe tin Viên Thiệu là thủ lĩnh quân Quan Đông liền giết hết họ hàng của Thiệu và Thuật, trong đó có cả Thái phó Viên Ngỗi). Ấy vậy mà “tướng quân lại nghe lời gièm, khiến chúng ta ngờ vực lẫn nhau” [1]. Phê bình có tình có lý như thế khiến Viên Thuật không nói gì được, đành “rất áy náy” mà điều phát quân lương trở lại cho Kiên.
Có thể nói trong liên quân phạt Đổng khi đó, Tôn Kiên đã tỏa sáng rực rỡ, không chỉ nhờ võ công mà còn do văn chí, lên ngựa không chỉ biết đánh thắng, xuống ngựa còn biết tạo lập chuẩn mực, chỉ ra cái sai, phê bình góp ý. Kiên đã cho cả thiên hạ thấy rằng, thế nào mới là một trung thần mẫu mực, thế nào mới là một thần tử đúng nghĩa.
Nếu như Tào Tháo trong giai đoạn này còn được đánh giá là năng thần, Tôn Kiên tại sao không thể là năng thần?
Tôn Kiên rõ ràng chính là một năng thần mẫu mực. Chỉ là ông ta gặp chút rắc rối về vấn đề ngọc tỉ.
Thực hư chuyện ngọc tỉ
Đổng Trác cầu hòa với Tôn Kiên không xong, bèn rút khỏi Lạc Dương chạy về Trường An. Trước khi đi Trác còn làm một chuyện tệ hại là “đốt cháy cung thất, đào bới lăng mộ, lấy hết vật báu”, khiến cho “cựu kinh rỗng không hoang tàn, trong vòng mấy trăm dặm không hề có khói lửa”. Vị trung thần Tôn Kiên vào Lạc Dương nhìn thấy cảnh ấy, không cầm lòng được đã “buồn bã rơi nước mắt”, rồi sau đó Kiên “tu bổ lăng mộ”, “quét dọn tông miếu”, “sửa sang lại việc tế tự” [1]. Tôn Kiên đã làm tất cả những gì có thể để vãn hồi lại mặt mũi cho một vương triều Hán vốn đã bị Đổng Trác tàn phá đến không còn chút thể diện. Đó cũng là hoàn cảnh của câu chuyện ngọc tỉ.
“Tam Quốc Chí - Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện” có trích một đoạn từ “Ngô thư” nói quân của Tôn Kiên tìm thấy trong giếng Chân Quan một cái “ấn ngọc truyền quốc” có khắc tám chữ “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” [2]; cũng trích “Sơn Dương công tái ký” nói rằng khi Viên Thuật sắp tiếm hiệu, đã uy hiếp mẹ của Kiên để đoạt lấy ấn ngọc này. Như vậy, câu chuyện Tôn Kiên âm thầm chiếm giữ ngọc tỉ phải chăng là có thật?
Phần “chú” của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí còn cung cấp tài liệu từ nhiều nguồn khác. Chẳng hạn, sách “Chí lâm” của Ngu Hỷ chép rằng ấn ngọc của Thiên tử thật ra có đến sáu cái, chữ khắc trên đó lần lượt là “Hoàng đế chi tỉ”, “Hoàng đế hành tỉ”, “Hoàng đế tín tỉ”, “Thiên tử chi tỉ”, “Thiên tử hành tỉ”, “Thiên tử tín tỉ”. Như vậy số lượng và chữ khắc trên ngọc tỉ đều khác so với ấn ngọc mà Tôn Kiên thu được, liệu ấn mà Tôn Kiên thu được có đúng là ngọc tỉ hay chỉ là một loại ấn khác?
Sách “Hán cung” của họ Ứng thì chữ khắc trên ngọc tỉ truyền quốc lại là “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ thả khang” [3], cũng khác với cái ấn ở Lạc Dương, vậy có phải Tôn Kiên đã bị oan?
Chính vì sự việc còn không rõ ràng, các sách chép khác nhau, nên Trần Thọ trong phần chính văn của Tam Quốc Chí đã không đưa chi tiết Tôn Kiên giấu ngọc tỉ vào trong bộ sử này. Thực hư ra sao, có lẽ khó có đáp án chính xác. Nhưng trong phần “chú” của Tam Quốc Chí, Bùi Tùng Chi có bàn về dữ liệu trong “Ngô thư” (bộ sử về nhà Ngô) rằng “Sử quan nước Ngô muốn làm rạng rỡ cho nước mình, nhưng chẳng biết là đã làm tổn hại đến cái đức tốt của Kiên” (tức là có khả năng “Ngô thư” đã thêm thắt chi tiết ngọc tỉ vào – NV), có thể xem là một lí giải phù hợp vậy.
Tiên chủ của Giang Đông
Tôn Kiên từng một lần rơi nước mắt khi chứng kiến đô thành Lạc Dương bị Đổng Trác tàn phá. Còn có lần thứ hai “mãnh hổ Giang Đông” này rơi lệ, là khi Viên Thiệu phái người đến đánh Kiên để tranh giành Dự Châu. Đổng tặc ở Trường An còn chưa phá được thì các chư hầu đã lo vun vén cơ đồ riêng, khiến cho Kiên phải bùi ngùi mà than rằng: “Cùng cất nghĩa binh, cứu giúp xã tắc. Nghịch tặc sắp bị phá mà mọi người như thế, ta sẽ hợp sức với ai đây!”.
Mười tám lộ chư hầu phạt Đổng là một cột mốc khiến cho nhiều người lột bỏ lớp mặt nạ, cũng sẽ khiến cho nhiều người thay đổi tâm tư. Tào Tháo từ một năng thần dần dần biến thành gian hùng. Viên Thiệu, Viên Thuật vốn mang danh trung thần rồi sẽ từ từ hóa thành kiêu hùng, bộc lộ dã tâm. Còn Tôn Kiên – một anh hùng đúng nghĩa cho đến thời điểm ấy, lại bối rối không biết về đâu, theo ai. Và cũng tại thời điểm ấy, Kiên bất hạnh qua đời, chết vì trúng phục binh của Hoàng Tổ khi dám “một mình một ngựa” [1] đi qua Hiện Sơn. Chiến tướng “lấy một cản trăm” năm xưa nay phải bỏ mình cũng vì sự táo bạo đã thành thói quen đó, cái chết ấy cũng không khác chuyện Tôn Sách sau này đi một mình rồi bị ám sát là bao. Dũng cảm quyết đoán, đến mức liều lĩnh khích liệt, để rồi chết trẻ, sự nghiệp dang dở, để lại bao nuối tiếc… âu cũng là một loại lựa chọn, một kiểu số phận của hai cha con Tôn Kiên – Tôn Sách vậy.
Tôn Kiên chết nhưng cơ nghiệp Giang Đông lại chỉ mới bắt đầu. Mãnh hổ mất đi nhưng vẫn còn đó bộ khúc và tướng sĩ trung thành. Chính lực lượng này sẽ là tiền đề cho Tôn Sách chinh phạt khắp miền Đông Nam về sau. Danh tiếng và uy vọng của Tôn Kiên cũng chính là cơ sở để người tài theo về với Tôn gia. Cơ nghiệp Giang Đông đã được xây nên từ những viên gạch đầu tiên như thế.
Đất Giang Đông không chỉ có mãnh hổ Tôn Kiên, Tiểu Bá Vương Tôn Sách hay Ngô chủ Tôn Quyền, mà còn có một Tôn Thượng Hương tuyệt sắc và cũng không kém phần oai hùng, về sau được gả cho chủ nhân Thục Hán – Lưu Bị. Cuộc hôn nhân này có gì đặc biệt?
Chú thích và tham khảo:
[1] Tam Quốc Chí – Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
[2] Tức “nhận mệnh trời ban, thọ lâu vĩnh viễn”.
[3] Tức “nhận mệnh trời ban, thọ lâu khỏe mạnh”.
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn đánh Đổng Trác trừ hại cho thiên hạ là Tôn Kiên và Tào Tháo.
Phê Viên Thuật, diệt Vương Duệ, chém Trương Tư
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn đánh Đổng Trác trừ hại cho thiên hạ là Tôn Kiên và Tào Tháo, nhưng hai người này cũng gặp không ít gian nan. Nếu như Tào Tháo hô hào không được ai hưởng ứng, xuất kế đánh địch không có ai ủng hộ, bị đám chư hầu “chỉ biết nói suông” kia làm cho tức chết, thì Tôn Kiên cũng không khá hơn. Ông bị đám người cùng trận tuyến khinh thường coi rẻ, không cấp quân lương, không hỗ trợ.
Thế nhưng cách mà Tào-Tôn phản ứng lại cũng khác nhau. Tào Tháo nói không ai nghe cũng không biết làm sao, thua trận thì quay về căn cứ. Còn Tôn Kiên thua thì phải đánh cho thắng mới dừng, kẻ nào không chịu hỗ trợ, không chịu phối hợp thì phê bình nghiêm khắc, thậm chí tiêu diệt!
Tác phong táo bạo quyết đoán và triệt để này chính là đặc trưng của Tôn Kiên, mà sau này cũng được Tôn gia kế thừa. Viên huyện lại mười bảy tuổi Tôn Kiên ở sông Tiền Đường năm nào dám một mình hù dọa cả trăm tên hải tặc, viên Tư mã Tôn Văn Đài dũng cảm xung phong leo lên thành trì phá giặc làm gương cho binh sĩ, cũng phảng phất cái oai hùng dũng liệt của Tiểu Bá Vương Tôn Sách một ngựa một thương tung hoành Giang Đông sau này.
Với cá tính quyết liệt và triệt để đó, ai dám cản trở quyết tâm của Tôn Kiên đương nhiên sẽ bị tiêu diệt. Thứ sử Kinh Châu Vương Duệ dám “nói năng vô lễ”, Thái thú Nam Dương Trương Tư “đường xá chưa tu sửa, quân tư trang không đầy đủ”, “không cấp quân lương” [1], đều bị Kiên giết chết. Một kẻ có quyền lực khác, quân hàm rất cao, gia thế rất mạnh là Hậu Tướng quân Viên Thuật cũng bị Kiên phê bình nghiêm khắc.
Vốn là sau Tôn Kiên khi đại phá Đổng Trác, chém đầu Hoa Hùng ở Dương Nhân, thì Viên Thuật nghe lời gièm pha của người khác nên không chuyển quân lương cho Kiên nữa. Tôn Kiên hết sức quyết liệt và khẩn trương, ngay trong đêm phi ngựa hơn trăm dặm (hơn 50 km) về Lỗ Dương trách cứ Viên Thuật, lời lẽ hết sức minh bạch rõ ràng: “Ta sở dĩ đem thân xông xáo chẳng hề đoái hoài đến mình” như vậy là có hai lí do: “trên vì quốc gia đánh giặc”, mà “dưới vì tư thù của gia tộc tướng quân” (Đổng Trác nghe tin Viên Thiệu là thủ lĩnh quân Quan Đông liền giết hết họ hàng của Thiệu và Thuật, trong đó có cả Thái phó Viên Ngỗi). Ấy vậy mà “tướng quân lại nghe lời gièm, khiến chúng ta ngờ vực lẫn nhau” [1]. Phê bình có tình có lý như thế khiến Viên Thuật không nói gì được, đành “rất áy náy” mà điều phát quân lương trở lại cho Kiên.
Có thể nói trong liên quân phạt Đổng khi đó, Tôn Kiên đã tỏa sáng rực rỡ, không chỉ nhờ võ công mà còn do văn chí, lên ngựa không chỉ biết đánh thắng, xuống ngựa còn biết tạo lập chuẩn mực, chỉ ra cái sai, phê bình góp ý. Kiên đã cho cả thiên hạ thấy rằng, thế nào mới là một trung thần mẫu mực, thế nào mới là một thần tử đúng nghĩa.
Nếu như Tào Tháo trong giai đoạn này còn được đánh giá là năng thần, Tôn Kiên tại sao không thể là năng thần?
Tôn Kiên rõ ràng chính là một năng thần mẫu mực. Chỉ là ông ta gặp chút rắc rối về vấn đề ngọc tỉ.
Thực hư chuyện ngọc tỉ
Đổng Trác cầu hòa với Tôn Kiên không xong, bèn rút khỏi Lạc Dương chạy về Trường An. Trước khi đi Trác còn làm một chuyện tệ hại là “đốt cháy cung thất, đào bới lăng mộ, lấy hết vật báu”, khiến cho “cựu kinh rỗng không hoang tàn, trong vòng mấy trăm dặm không hề có khói lửa”. Vị trung thần Tôn Kiên vào Lạc Dương nhìn thấy cảnh ấy, không cầm lòng được đã “buồn bã rơi nước mắt”, rồi sau đó Kiên “tu bổ lăng mộ”, “quét dọn tông miếu”, “sửa sang lại việc tế tự” [1]. Tôn Kiên đã làm tất cả những gì có thể để vãn hồi lại mặt mũi cho một vương triều Hán vốn đã bị Đổng Trác tàn phá đến không còn chút thể diện. Đó cũng là hoàn cảnh của câu chuyện ngọc tỉ.
“Tam Quốc Chí - Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện” có trích một đoạn từ “Ngô thư” nói quân của Tôn Kiên tìm thấy trong giếng Chân Quan một cái “ấn ngọc truyền quốc” có khắc tám chữ “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” [2]; cũng trích “Sơn Dương công tái ký” nói rằng khi Viên Thuật sắp tiếm hiệu, đã uy hiếp mẹ của Kiên để đoạt lấy ấn ngọc này. Như vậy, câu chuyện Tôn Kiên âm thầm chiếm giữ ngọc tỉ phải chăng là có thật?
Phần “chú” của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí còn cung cấp tài liệu từ nhiều nguồn khác. Chẳng hạn, sách “Chí lâm” của Ngu Hỷ chép rằng ấn ngọc của Thiên tử thật ra có đến sáu cái, chữ khắc trên đó lần lượt là “Hoàng đế chi tỉ”, “Hoàng đế hành tỉ”, “Hoàng đế tín tỉ”, “Thiên tử chi tỉ”, “Thiên tử hành tỉ”, “Thiên tử tín tỉ”. Như vậy số lượng và chữ khắc trên ngọc tỉ đều khác so với ấn ngọc mà Tôn Kiên thu được, liệu ấn mà Tôn Kiên thu được có đúng là ngọc tỉ hay chỉ là một loại ấn khác?
Sách “Hán cung” của họ Ứng thì chữ khắc trên ngọc tỉ truyền quốc lại là “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ thả khang” [3], cũng khác với cái ấn ở Lạc Dương, vậy có phải Tôn Kiên đã bị oan?
Chính vì sự việc còn không rõ ràng, các sách chép khác nhau, nên Trần Thọ trong phần chính văn của Tam Quốc Chí đã không đưa chi tiết Tôn Kiên giấu ngọc tỉ vào trong bộ sử này. Thực hư ra sao, có lẽ khó có đáp án chính xác. Nhưng trong phần “chú” của Tam Quốc Chí, Bùi Tùng Chi có bàn về dữ liệu trong “Ngô thư” (bộ sử về nhà Ngô) rằng “Sử quan nước Ngô muốn làm rạng rỡ cho nước mình, nhưng chẳng biết là đã làm tổn hại đến cái đức tốt của Kiên” (tức là có khả năng “Ngô thư” đã thêm thắt chi tiết ngọc tỉ vào – NV), có thể xem là một lí giải phù hợp vậy.
Tiên chủ của Giang Đông
Tôn Kiên từng một lần rơi nước mắt khi chứng kiến đô thành Lạc Dương bị Đổng Trác tàn phá. Còn có lần thứ hai “mãnh hổ Giang Đông” này rơi lệ, là khi Viên Thiệu phái người đến đánh Kiên để tranh giành Dự Châu. Đổng tặc ở Trường An còn chưa phá được thì các chư hầu đã lo vun vén cơ đồ riêng, khiến cho Kiên phải bùi ngùi mà than rằng: “Cùng cất nghĩa binh, cứu giúp xã tắc. Nghịch tặc sắp bị phá mà mọi người như thế, ta sẽ hợp sức với ai đây!”.
Mười tám lộ chư hầu phạt Đổng là một cột mốc khiến cho nhiều người lột bỏ lớp mặt nạ, cũng sẽ khiến cho nhiều người thay đổi tâm tư. Tào Tháo từ một năng thần dần dần biến thành gian hùng. Viên Thiệu, Viên Thuật vốn mang danh trung thần rồi sẽ từ từ hóa thành kiêu hùng, bộc lộ dã tâm. Còn Tôn Kiên – một anh hùng đúng nghĩa cho đến thời điểm ấy, lại bối rối không biết về đâu, theo ai. Và cũng tại thời điểm ấy, Kiên bất hạnh qua đời, chết vì trúng phục binh của Hoàng Tổ khi dám “một mình một ngựa” [1] đi qua Hiện Sơn. Chiến tướng “lấy một cản trăm” năm xưa nay phải bỏ mình cũng vì sự táo bạo đã thành thói quen đó, cái chết ấy cũng không khác chuyện Tôn Sách sau này đi một mình rồi bị ám sát là bao. Dũng cảm quyết đoán, đến mức liều lĩnh khích liệt, để rồi chết trẻ, sự nghiệp dang dở, để lại bao nuối tiếc… âu cũng là một loại lựa chọn, một kiểu số phận của hai cha con Tôn Kiên – Tôn Sách vậy.
“Cùng cấp nghĩa binh, cứu giúp xã tắc. Nghịch tặc sắp bị phá mà mọi người như thế, ta sẽ hợp sức với ai đây!”
Đất Giang Đông không chỉ có mãnh hổ Tôn Kiên, Tiểu Bá Vương Tôn Sách hay Ngô chủ Tôn Quyền, mà còn có một Tôn Thượng Hương tuyệt sắc và cũng không kém phần oai hùng, về sau được gả cho chủ nhân Thục Hán – Lưu Bị. Cuộc hôn nhân này có gì đặc biệt?
Đón xem kỳ tới: Hôn nhân Tôn - Lưu: “Chồng gì anh, vợ gì tôi?”
Nguyễn Đỗ Thuyên
-----------------------------------------Chú thích và tham khảo:
[1] Tam Quốc Chí – Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
[2] Tức “nhận mệnh trời ban, thọ lâu vĩnh viễn”.
[3] Tức “nhận mệnh trời ban, thọ lâu khỏe mạnh”.
Top 5 đồ chơi ấn tượng nhất thế giới HD
Trinh Thanh
12:24
No comments
Tôn Ngộ Không truyện - Chi Bảo [Part1] HD
Trinh Thanh
12:22
No comments
Phim chiếu rạp: Phong Thần Bảng Truyền Kỳ [Vietsub] HD
Trinh Thanh
12:21
No comments
Những hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ [Thuyết minh - HD]
Trinh Thanh
12:14
No comments
Khám phá những hiện tượng thường thấy trong tự nhiên sẽ được khoa học giải thích kỹ càng như cực quang hay ánh nắng mặt trời. Tại sao chúng ta không nên phơi nắng và càng không nên "tắm" ánh nắng nhân tạo ??? Mời các bạn xem clip sẽ rõ
Điều gì sẽ xảy ra khi mặt trăng biến mất ???
Trinh Thanh
10:53
No comments
Điều gì sẽ xảy ra khi mặt trăng biến mất ??? . Bờ biển sẽ bị tấn công bởi các đợt sóng thần dữ dội. Nó biến vùng cực thành vùng nhiệt đới, Và xích đạo bị bao phủ bởi băng tuyết!. Và khiến nhiều loài vật mới được sinh ra cũng như nhiều loài sẽ tuyệt chủng.... và còn gì nữa????
Thứ Ba, 16 tháng 8, 2016
Người bất tử - (The Man from Earth ) [Vietsub] HD
Trinh Thanh
22:08
No comments
Phim người bất tử là bộ phim không nhiều kỹ xảo, không nhiều tình tiết lãng mạng, cũng như không nhiều pha hành động và diễn viên, nghe có vẻ nhàm chán, nhưng tin ad đi, khi các bạn (chưa xem qua) xem phim này sẽ không thể nào rời mắt khỏi màn hình. Review sơ sơ là phim kể về 1 chàng trai sống từ thời đồ đá củ tới tận bây giờ, anh ta không già không chết. Trong suốt 1400 năm anh ta từng gặp rất nhiều vĩ nhân trên thế giới (trong đó có cả đức phật).... Thôi các bạn xem phim sẽ rõ
Thám hiểm mặt trăng [Vietsub-HD]
Trinh Thanh
21:56
No comments
Để có được 1 căn cứ trên mặt trăng, Nasa và các nhà khoa học đã phải đến những vùng đất khô cằn để dựng 1 căn cứ thử nghiệm và họ đã sống và tập thích nghi trong điều kiện thiếu thốn và vắng bóng người!
Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016
Giải mã thời Tam quốc: Tôn Kiên – Khắc tinh của Đổng Trác
Trinh Thanh
21:24
No comments
TPO - Loạn thế Hán mạt, Khăn Vàng nổi dậy, Lương Châu binh biến... là cơ hội cho anh hùng tỏa sáng, cho bá chủ chuyển mình. Tôn Kiên đã làm được những gì trong thời kỳ đó?
Tiền kỳ Tam Quốc là giai đoạn cực kỳ sôi động, biến cố dồn dập, người tài lớp lớp. Giữa loạn thế, có người tìm được lý tưởng, có người thu được chiến công, có người chiếm được danh vọng, cũng có người đánh mất tất cả. Thật đúng là: “Ở đời muôn sự của chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.
Vậy Tôn Kiên có anh hùng không, và đã anh hùng như thế nào? Đối thủ lớn nhất của Tôn Kiên là ai?
Dẹp Khăn Vàng, an Lương Châu, định Trường Sa, bình Kinh Nam
Thời Đông Hán, thế tộc lũng đoạn quan trường, người ta ra làm quan là nhờ vào quan hệ và tiến cử, cho nên dòng dõi là thứ tài sản quý giá nhất, mà danh tiếng là thứ vốn liếng quan trọng nhất. Nhờ danh tiếng tích lũy được trong hơn mười năm làm quan ở địa phương, đến năm Trung Bình thứ nhất (189), Tôn Kiên được Chu Tuấn – một trong ba tướng lĩnh chủ chốt chống Khăn Vàng (sau Hoàng Phủ Tung và Lư Thực) tiến cử làm Tá quân Tư mã để cùng tham gia bình định loạn Khăn Vàng.
Một người ôm đầy hoài bão như Tôn Văn Đài bước ra chiến trường chẳng khác nào rồng ra biển lớn, thỏa sức vẫy vùng. Triều đình Hán mạt suy yếu, quân đội chính quy ít ỏi vô cùng. Nhờ uy tín có được sau nhiều năm làm quan, Tôn Kiên bèn “mộ thêm các thương lữ và tinh binh ở vùng Hoài, Tứ, gom lại được hơn nghìn người”, lại được “những người trẻ tuổi ở quê quán đều nguyện đi theo” [1].
Một người ôm đầy hoài bão như Tôn Văn Đài bước ra chiến trường chẳng khác nào rồng ra biển lớn, thỏa sức vẫy vùng
Cầm số quân không tính là nhiều này, Kiên từ vùng Hoài Tứ đánh thẳng đến Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, khiến cho giặc phải “khốn quẫn, chạy vào giữ Uyển Thành”.
Tại mặt trận Nam Dương, Kiên lại càng uy dũng đi đầu ba quân, “đích thân đảm đương một mặt, trèo lên thành xông vào trước, binh sĩ bám theo như đàn kiến, sau cùng đại phá quân giặc” [1].
Chiến công này giúp Kiên được thăng làm Biệt bộ Tư mã, cũng giúp ghi lại ấn tượng tốt trong lòng giới quân đội Đông Hán. Bởi thế nên hai năm sau (189), khi Biên Chương, Hàn Toại làm loạn ở Lương Châu và người phụ trách đánh dẹp là Đổng Trác thất bại (lúc này Trác mới chỉ là Trung lang tướng), thì Xa kỵ Tướng quân Trương Ôn đã quyết định “dâng biểu xin cho Kiên giúp tham mưu việc quân”, hỗ trợ mình ở chiến trường phía Tây. Mà sau chiến dịch đó, Tôn Kiên cũng được chọn đi bình định quân phản loạn của Khu Tinh ở Trường Sa. Chỉ trong một tháng dẹp yên Khu Tinh, Tôn Kiên cũng tiêu diệt nốt phản quân Chu Triêu, Quách Thạch ở Linh Lăng, Quế Dương cạnh đó, hoàn toàn an định xong ba quận Kinh Nam (tức phía Nam Kinh Châu).
Giai đoạn này, Tôn Kiên quả thật là vị “phúc tướng” của Đông Hán, cần mẫn siêng năng, hễ gọi là đi, đánh khắp từ khu vực Trung Nguyên lên đến biên cương phía Tây, lại chạy về bình định phía Nam, mà hễ đánh là toàn thắng.
Khắc tinh của Đổng Trác
Lập vô số quân công trong thời gian ngắn ngủi mấy năm, Tôn Kiên được thăng làm Thái thú Trường Sa, chính thức bước vào hàng ngũ những nhân vật có thực lực trong thiên hạ khi ấy. Nhưng cái mà Tôn Kiên lấy được không phải chỉ có chức tước hoặc địa bàn, mà còn là danh vọng và sự tôn trọng. Và kẻ mà Tôn Kiên đối đầu, không chỉ có giặc cướp hay phản quân, mà còn là một quân phiệt trong tương lai sẽ hoành hành điên đảo: Đổng Trác!
Sau loạn Lương Châu, Biên Chương, Hàn Toại nghe đại quân đến, “bè đảng tự tan, đều xin hàng”, dư luận trong triều đình cho rằng “quân chưa lâm địch, không thể định công ban thưởng” [1]; thế nhưng uy tín của Tôn Kiên vẫn tăng vùn vụt, đó là vì hành động kể tội Đổng Trác.
Trước khi Trương Ôn và Tôn Kiên đến Lương Châu, Đổng Trác đối với phản quân Biên Chương, Hàn Toại không thể hiện được gì nhiều. Khi đại quân của Trương Ôn đến hỗ trợ, thái độ của Đổng Trác cũng không lấy gì làm vui vẻ, thậm chí còn chậm chạp, rất lâu sau mới đến báo cáo quân tình. Đối với một người đầy nhiệt huyết, nghiêm túc và có trách nhiệm như Tôn Kiên, đây là điều không thể chấp nhận. Kiên đã vạch ra ba tội đáng chém đầu của Đổng Trác:
- Trác “khinh mạn vô lễ với người trên”, không coi cấp trên (Trương Ôn) ra gì.
- Trác tiến binh trì trệ, ngăn cản quân lính chinh phạt phản nghịch, có dấu hiệu không muốn đánh, làm dao động quân tâm (“Chương, Toại cứng đầu ngang ngược nhiều năm, đáng ra phải kịp thời đánh dẹp, mà Trác nói là chưa nên, lại cản trở quân binh làm mọi người nghi hoặc”).
- Trác “vâng mệnh nhận trách nhiệm mà không có công, ứng mệnh triệu thì dềnh dàng chậm trễ, lại nghênh ngang tự kiêu”.
Dù Trương Ôn e ngại danh tiếng của Đổng Trác ở Lương Châu quá lớn nên không ra tay, nhưng chuyện Tôn Kiên vạch tội Đổng Trác đã khiến cho triều đình “chẳng ai không tán thưởng” [1].
Sau này, khi Đổng Trác làm loạn triều cương, quan viên triều đình nhớ lại chuyện này ắt hẳn phải rất tiếc nuối vì không sớm diệt trừ một mầm loạn dẫu cho đã có người mắt sáng giúp chỉ ra mầm loạn đó. Nhưng chắc chắn là Đổng Trác cũng không vui vẻ gì khi có một kẻ địch như Tôn Kiên.
Không chỉ bị vạch tội, sau khi liên quân phạt Đổng hình thành, Tôn Kiên cũng chính là đối thủ đáng sợ nhất của Đổng Trác.
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn phạt Đổng là Tôn Kiên và Tào Tháo. Nếu như Tào Tháo đánh đâu thua đó, là bại tướng của Từ Vinh; thì các kiêu tướng của Trác như Hồ Chẩn, Lữ Bố, Hoa Hùng lại đều thất thủ trước Tôn Kiên, mà Hoa Hùng cũng là do Tôn Kiên tiêu diệt, chứ không phải bị Quan Vũ chém đầu như Tam Quốc Diễn Nghĩa từng kể.
Chính miệng Đổng Trác cũng phải thừa nhận (dù miễn cưỡng) rằng “quân Quan Đông bị thua mấy lần rồi”, đều phải úy kỵ Trác chứ không thể làm gì được; chỉ riêng có Tôn Kiên là “cũng hơi có tài dùng người”, “đại để cái kiến giải của hắn tương đồng với Cô [2]”.
Úy kỵ cái dũng mãnh tráng liệt của Kiên, Đổng Trác đã phái Lý Thôi đến xin cầu hòa và kết thân với Tôn Kiên, “cho Kiên sắp xếp con em thân sơ của mình vào các chức Thứ sử, Quận thú, hứa sẽ dâng biểu bổ dụng họ”. Đây quả là cơ hội tốt nếu muốn gia tăng lực lượng, tăng cường phe cánh cho bản thân và gia tộc.
Nhưng không may cho họ Đổng vì Tôn Kiên không phải loại người như vậy. Lời tuyên bố của Kiên đã nói lên tất cả: “Trác trái trời vô đạo, khuất lật vương thất, nay không giết được ba họ nhà hắn để bố cáo thiên hạ thì ta chết không nhắm mắt, há lại cùng hắn hòa thân sao!”
Cuộc chiến với Đổng Trác đã giúp nâng tầm vóc của Tôn Kiên lên hàng một năng thần. Tham gia liên quân phạt Đổng, Tôn Kiên đã cho cả thiên hạ thấy rằng, thế nào mới là một trung thần mẫu mực, thế nào mới là một thần tử đúng nghĩa. Đó cũng là lúc, nền móng cho một thế lực mới tại Giang Đông dần dần được định hình. Đón xem kỳ tới: Tôn Kiên – năng thần của Đông Hán, tiên chủ của Giang Đông
....................................
Chú thích và tham khảo:
+ [1] Tam Quốc Chí – Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
+ [2] “Cô” – cũng như “cô vương” hoặc “quả nhân” là cách tự xưng khiêm tốn của của bậc vua các nước chư hầu thời phong kiến (như Tôn Quyền về sau cũng cắt đấy làm vương, xưng “cô”). Đổng Trác tự xưng Cô là có ý coi mình như đứng đầu một nước chư hầu.
Tạo hình điện ảnh nhân vật Tôn Kiên.
Tiền kỳ Tam Quốc là giai đoạn cực kỳ sôi động, biến cố dồn dập, người tài lớp lớp. Giữa loạn thế, có người tìm được lý tưởng, có người thu được chiến công, có người chiếm được danh vọng, cũng có người đánh mất tất cả. Thật đúng là: “Ở đời muôn sự của chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.
Vậy Tôn Kiên có anh hùng không, và đã anh hùng như thế nào? Đối thủ lớn nhất của Tôn Kiên là ai?
Dẹp Khăn Vàng, an Lương Châu, định Trường Sa, bình Kinh Nam
Thời Đông Hán, thế tộc lũng đoạn quan trường, người ta ra làm quan là nhờ vào quan hệ và tiến cử, cho nên dòng dõi là thứ tài sản quý giá nhất, mà danh tiếng là thứ vốn liếng quan trọng nhất. Nhờ danh tiếng tích lũy được trong hơn mười năm làm quan ở địa phương, đến năm Trung Bình thứ nhất (189), Tôn Kiên được Chu Tuấn – một trong ba tướng lĩnh chủ chốt chống Khăn Vàng (sau Hoàng Phủ Tung và Lư Thực) tiến cử làm Tá quân Tư mã để cùng tham gia bình định loạn Khăn Vàng.
Một người ôm đầy hoài bão như Tôn Văn Đài bước ra chiến trường chẳng khác nào rồng ra biển lớn, thỏa sức vẫy vùng. Triều đình Hán mạt suy yếu, quân đội chính quy ít ỏi vô cùng. Nhờ uy tín có được sau nhiều năm làm quan, Tôn Kiên bèn “mộ thêm các thương lữ và tinh binh ở vùng Hoài, Tứ, gom lại được hơn nghìn người”, lại được “những người trẻ tuổi ở quê quán đều nguyện đi theo” [1].
Một người ôm đầy hoài bão như Tôn Văn Đài bước ra chiến trường chẳng khác nào rồng ra biển lớn, thỏa sức vẫy vùng
Cầm số quân không tính là nhiều này, Kiên từ vùng Hoài Tứ đánh thẳng đến Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, khiến cho giặc phải “khốn quẫn, chạy vào giữ Uyển Thành”.
Tại mặt trận Nam Dương, Kiên lại càng uy dũng đi đầu ba quân, “đích thân đảm đương một mặt, trèo lên thành xông vào trước, binh sĩ bám theo như đàn kiến, sau cùng đại phá quân giặc” [1].
Chiến công này giúp Kiên được thăng làm Biệt bộ Tư mã, cũng giúp ghi lại ấn tượng tốt trong lòng giới quân đội Đông Hán. Bởi thế nên hai năm sau (189), khi Biên Chương, Hàn Toại làm loạn ở Lương Châu và người phụ trách đánh dẹp là Đổng Trác thất bại (lúc này Trác mới chỉ là Trung lang tướng), thì Xa kỵ Tướng quân Trương Ôn đã quyết định “dâng biểu xin cho Kiên giúp tham mưu việc quân”, hỗ trợ mình ở chiến trường phía Tây. Mà sau chiến dịch đó, Tôn Kiên cũng được chọn đi bình định quân phản loạn của Khu Tinh ở Trường Sa. Chỉ trong một tháng dẹp yên Khu Tinh, Tôn Kiên cũng tiêu diệt nốt phản quân Chu Triêu, Quách Thạch ở Linh Lăng, Quế Dương cạnh đó, hoàn toàn an định xong ba quận Kinh Nam (tức phía Nam Kinh Châu).
Giai đoạn này, Tôn Kiên quả thật là vị “phúc tướng” của Đông Hán, cần mẫn siêng năng, hễ gọi là đi, đánh khắp từ khu vực Trung Nguyên lên đến biên cương phía Tây, lại chạy về bình định phía Nam, mà hễ đánh là toàn thắng.
Khắc tinh của Đổng Trác
Lập vô số quân công trong thời gian ngắn ngủi mấy năm, Tôn Kiên được thăng làm Thái thú Trường Sa, chính thức bước vào hàng ngũ những nhân vật có thực lực trong thiên hạ khi ấy. Nhưng cái mà Tôn Kiên lấy được không phải chỉ có chức tước hoặc địa bàn, mà còn là danh vọng và sự tôn trọng. Và kẻ mà Tôn Kiên đối đầu, không chỉ có giặc cướp hay phản quân, mà còn là một quân phiệt trong tương lai sẽ hoành hành điên đảo: Đổng Trác!
Sau loạn Lương Châu, Biên Chương, Hàn Toại nghe đại quân đến, “bè đảng tự tan, đều xin hàng”, dư luận trong triều đình cho rằng “quân chưa lâm địch, không thể định công ban thưởng” [1]; thế nhưng uy tín của Tôn Kiên vẫn tăng vùn vụt, đó là vì hành động kể tội Đổng Trác.
Trước khi Trương Ôn và Tôn Kiên đến Lương Châu, Đổng Trác đối với phản quân Biên Chương, Hàn Toại không thể hiện được gì nhiều. Khi đại quân của Trương Ôn đến hỗ trợ, thái độ của Đổng Trác cũng không lấy gì làm vui vẻ, thậm chí còn chậm chạp, rất lâu sau mới đến báo cáo quân tình. Đối với một người đầy nhiệt huyết, nghiêm túc và có trách nhiệm như Tôn Kiên, đây là điều không thể chấp nhận. Kiên đã vạch ra ba tội đáng chém đầu của Đổng Trác:
- Trác “khinh mạn vô lễ với người trên”, không coi cấp trên (Trương Ôn) ra gì.
- Trác tiến binh trì trệ, ngăn cản quân lính chinh phạt phản nghịch, có dấu hiệu không muốn đánh, làm dao động quân tâm (“Chương, Toại cứng đầu ngang ngược nhiều năm, đáng ra phải kịp thời đánh dẹp, mà Trác nói là chưa nên, lại cản trở quân binh làm mọi người nghi hoặc”).
- Trác “vâng mệnh nhận trách nhiệm mà không có công, ứng mệnh triệu thì dềnh dàng chậm trễ, lại nghênh ngang tự kiêu”.
Tôn Kiên chính là đối thủ đáng sợ nhất của Đổng Trác.
Dù Trương Ôn e ngại danh tiếng của Đổng Trác ở Lương Châu quá lớn nên không ra tay, nhưng chuyện Tôn Kiên vạch tội Đổng Trác đã khiến cho triều đình “chẳng ai không tán thưởng” [1].
Sau này, khi Đổng Trác làm loạn triều cương, quan viên triều đình nhớ lại chuyện này ắt hẳn phải rất tiếc nuối vì không sớm diệt trừ một mầm loạn dẫu cho đã có người mắt sáng giúp chỉ ra mầm loạn đó. Nhưng chắc chắn là Đổng Trác cũng không vui vẻ gì khi có một kẻ địch như Tôn Kiên.
Không chỉ bị vạch tội, sau khi liên quân phạt Đổng hình thành, Tôn Kiên cũng chính là đối thủ đáng sợ nhất của Đổng Trác.
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn phạt Đổng là Tôn Kiên và Tào Tháo. Nếu như Tào Tháo đánh đâu thua đó, là bại tướng của Từ Vinh; thì các kiêu tướng của Trác như Hồ Chẩn, Lữ Bố, Hoa Hùng lại đều thất thủ trước Tôn Kiên, mà Hoa Hùng cũng là do Tôn Kiên tiêu diệt, chứ không phải bị Quan Vũ chém đầu như Tam Quốc Diễn Nghĩa từng kể.
Chính miệng Đổng Trác cũng phải thừa nhận (dù miễn cưỡng) rằng “quân Quan Đông bị thua mấy lần rồi”, đều phải úy kỵ Trác chứ không thể làm gì được; chỉ riêng có Tôn Kiên là “cũng hơi có tài dùng người”, “đại để cái kiến giải của hắn tương đồng với Cô [2]”.
Úy kỵ cái dũng mãnh tráng liệt của Kiên, Đổng Trác đã phái Lý Thôi đến xin cầu hòa và kết thân với Tôn Kiên, “cho Kiên sắp xếp con em thân sơ của mình vào các chức Thứ sử, Quận thú, hứa sẽ dâng biểu bổ dụng họ”. Đây quả là cơ hội tốt nếu muốn gia tăng lực lượng, tăng cường phe cánh cho bản thân và gia tộc.
Nhưng không may cho họ Đổng vì Tôn Kiên không phải loại người như vậy. Lời tuyên bố của Kiên đã nói lên tất cả: “Trác trái trời vô đạo, khuất lật vương thất, nay không giết được ba họ nhà hắn để bố cáo thiên hạ thì ta chết không nhắm mắt, há lại cùng hắn hòa thân sao!”
Cuộc chiến với Đổng Trác đã giúp nâng tầm vóc của Tôn Kiên lên hàng một năng thần. Tham gia liên quân phạt Đổng, Tôn Kiên đã cho cả thiên hạ thấy rằng, thế nào mới là một trung thần mẫu mực, thế nào mới là một thần tử đúng nghĩa. Đó cũng là lúc, nền móng cho một thế lực mới tại Giang Đông dần dần được định hình. Đón xem kỳ tới: Tôn Kiên – năng thần của Đông Hán, tiên chủ của Giang Đông
....................................
Chú thích và tham khảo:
+ [1] Tam Quốc Chí – Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện (NXB Văn học 2016, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính).
+ [2] “Cô” – cũng như “cô vương” hoặc “quả nhân” là cách tự xưng khiêm tốn của của bậc vua các nước chư hầu thời phong kiến (như Tôn Quyền về sau cũng cắt đấy làm vương, xưng “cô”). Đổng Trác tự xưng Cô là có ý coi mình như đứng đầu một nước chư hầu.
Nguyễn Đỗ Thuyên
pokewalls
Trinh Thanh
21:14
No comments
Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016
Game : tank 1990 for IOS
Trinh Thanh
03:02
No comments
game tank 1990 HD
Chiến lược cả đời Khổng Minh thực ra đã thất bại từ trứng nước?
Trinh Thanh
03:00
No comments
Toàn bộ giai đoạn "Tam Quốc" chỉ là con đường đi tới diệt vong của Thục Hán, mà căn nguyên thực sự được cho là đã xảy ra từ khi chiến lược của Khổng Minh mới "ra lò".
Cốt lõi của "tam phân thiên hạ"
Ngày này, có nhiều ý kiến cho rằng sự sụp đổ của Thục Hán xuất phát từ sự kiện Quan Vũ để mất Kinh Châu về tay Đông Ngô, khiến Thục gần như bị "bế quan tỏa cảng", không còn cách đột phá ra khỏi lãnh thổ của mình.
Sự kiện này có thể coi là điểm mấu chốt trong sự sụp đổ của toàn bộ "Long Trung đối sách" nhằm duy trì thế "tam phân thiên hạ" của Gia Cát Lượng.
Tuy nhiên, có quan điểm nói rằng, sự thất bại thực sự của Khổng Minh đã đến từ trước đó rất lâu, khi ông không thể thuyết phục Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu khi khu vực này còn nằm trong tay Lưu Biểu, chứ chưa sáp nhập vào Đông Ngô.
"Long Trung đối sách" là chiến lược căn bản mà Gia Cát Lượng vạch ra cho Lưu Bị từ khi ông còn ở "lều cỏ". Mục tiêu của chiến lược này là "liên Ngô kháng Tào".
Trong khi đó, Khổng Minh cũng chỉ ra, điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu nói trên là phải có được Kinh Châu trong tay.
Dù sau đại chiến Xích Bích, Lưu Bị cũng "mượn" được Kinh Châu từ Tôn Quyền, song thời thế đã không còn như trước. Khổng Minh hiểu rõ, cùng là một miếng đất, nhưng đoạt lấy khi nào và từ tay ai lại mang ý nghĩa chiến lược hoàn toàn khác biệt.
Đương thời, Tào Tháo còn mải bình định phương Bắc, chưa thể xua quân Nam hạ, trong khi Tôn Quyền và Lưu Biểu diễn ra tranh chấp.
Nếu tại thời điểm này, Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu từ tay Biểu thì ông có thể dễ dàng sở hữu một địa bàn độc lập mà không phát sinh vấn đề chủ quyền, dẫn đến xung đột với Đông Ngô như sau này.
Như vậy, với việc Tào Tháo tấn công Giang Đông, sự liên kết của Tôn Quyền và Lưu Bị cũng sẽ được hiện thực hóa trong vai vế bình đẳng hơn.
Ngược lại, trên thực tế, quân đội Lưu Bị đã bị Tào Tháo đè bẹp ở Tân Dã, buộc ông phải cử Khổng Minh làm thuyết khách đến cầu viện Đông Ngô. Về lý thuyết, Lưu Bị luôn ở "chiếu dưới" trong quan hệ đồng minh với Tôn Quyền.
Ngay trong chiến dịch Xích Bích, quân đội chủ đạo đem lại thế thắng cho "liên quân" thực chất cũng là thủy quân của Chu Du.
Qua các điểm này, có thể thấy được ý nghĩa lớn nhất của việc "không bỏ lỡ thời cơ đoạt Kinh Châu" chính là Lưu Bị sẽ được "danh chính ngôn thuận" sử dụng Kinh Châu mà không vấp phải sự chất vấn chủ quyền từ Giang Đông. Có như vậy, "Long Trung đối" mới được thực thi triệt để.
"Sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô"
Khi "cơ hội vàng" trôi qua, lịch sử Tam Quốc đã ghi nhận tranh chấp chủ quyền cực lớn giữa Thục và Ngô tại Kinh Châu.
Việc Gia Cát Lượng buộc dựa vào mưu lược để "mượn sức" Đông Ngô đoạt lấy Kinh Tương vô hình trung đã thừa nhận sự góp phần và ăn chia hợp lý của Giang Đông tại khu vực này.
Kinh Châu được Thục tận dụng hiệu quả trong suốt 10 năm trời, nhờ đó thôn tính địa bàn chiến lược thứ 2 là Ích Châu, đủ thấy giá trị địa - chính trị của Kinh Châu không gì thay thế được.
Nhưng mối ẩn họa đối với Thục Hán là sự ổn định khu vực này chỉ là tạm thời. Đông Ngô nhiều lần dùng các biện pháp ngoại giao yêu cầu hoàn trả Kinh Châu, trong khi Khổng Minh chỉ có thể "khất lần" để nuôi dưỡng thực lực với mục đích nuốt trọn được địa bàn này.
Có quan điểm nói rằng điều Khổng Minh lo ngại nhất mà không thể ngăn được chính là Quan Vũ trở thành đại tướng trấn thủ Kinh Châu.
Việc Quan Vũ "đổ thêm dầu vào lửa" dẫn tới xung đột bùng phát và ông để mất Kinh Châu là thực tế, nhưng chỉ là hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn âm ỉ trong suốt 10 năm trời.
Nguyên nhân rất đơn giản, Lưu Bị là phe được lợi và đương nhiên muốn duy trì hiện trạng Kinh Châu, đồng thời "hợp tác hòa bình" với Đông Ngô.
Trong khi đó, Giang Đông là phe chịu thiệt và thậm chí còn bị lợi dụng. Do đó, việc Tôn Quyền phát binh lấy Kinh Châu chỉ là vấn đề thời gian, Thục Hán hy vọng dùng các chính sách ngoại giao để "lần lữa" chỉ là phương án câu giờ, hoàn toàn không xử lý được vấn đề.
Chính vì vậy, có quan điểm bênh vực Quan Vũ nói rằng, việc đoạt lại Kinh Châu từ Thục đã là chiến lược tất yếu của Đông Ngô, cho nên việc Quan Vân Trường có thủ Kinh Châu hay thậm chí là Khổng Minh trực tiếp trấn giữ cũng không thay đổi được gì.
Cho dù Quan Vân Trường không thua trước Lữ Mông, Lục Tốn năm 219 và Kinh Châu chưa mất, thì những năm sau đó, đây vẫn sẽ là khu vực "nóng" nhất trong mâu thuẫn Ngô - Thục.
Cũng có ý kiến nói rằng, không phải Gia Cát Lượng không muốn sớm đoạt Kinh Châu. Ông từng nhiều lần thuyết phục Lưu Bị ra tay nhưng không được nghe theo.
Nhiều sự kiện về sau đã chứng minh, Lưu Bị chắc chắn là người sẵn sàng đi ngược lại đạo đức để hành sự. Điều mà Khổng Minh thất bại chính là không đưa ra được một cái cớ hợp lý để Bị thực hiện việc đó với Lưu Biểu.
Trong một hoàn cảnh tương tự, Bàng Thống - nhân vật tề danh cùng Khổng Minh - đã giúp Bị tìm được một lý do "danh chính ngôn thuân", giúp ông ta vượt qua "trở ngại đạo đức" mà đoạt lấy Tây Xuyên.
Câu nói "sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô (Kinh Châu)" mà Khổng Minh nói với Lưu Bị xem ra đã trở thành trò cười, bởi thất bại của họ rất có khả năng xuất phát từ chính thời điểm "sớm muộn" đó mà thôi.
Cốt lõi của "tam phân thiên hạ"
Ngày này, có nhiều ý kiến cho rằng sự sụp đổ của Thục Hán xuất phát từ sự kiện Quan Vũ để mất Kinh Châu về tay Đông Ngô, khiến Thục gần như bị "bế quan tỏa cảng", không còn cách đột phá ra khỏi lãnh thổ của mình.
Sự kiện này có thể coi là điểm mấu chốt trong sự sụp đổ của toàn bộ "Long Trung đối sách" nhằm duy trì thế "tam phân thiên hạ" của Gia Cát Lượng.
Tuy nhiên, có quan điểm nói rằng, sự thất bại thực sự của Khổng Minh đã đến từ trước đó rất lâu, khi ông không thể thuyết phục Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu khi khu vực này còn nằm trong tay Lưu Biểu, chứ chưa sáp nhập vào Đông Ngô.
"Long Trung đối sách" là chiến lược căn bản mà Gia Cát Lượng vạch ra cho Lưu Bị từ khi ông còn ở "lều cỏ". Mục tiêu của chiến lược này là "liên Ngô kháng Tào".
Trong khi đó, Khổng Minh cũng chỉ ra, điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu nói trên là phải có được Kinh Châu trong tay.
Đương thời, Tào Tháo còn mải bình định phương Bắc, chưa thể xua quân Nam hạ, trong khi Tôn Quyền và Lưu Biểu diễn ra tranh chấp.
Nếu tại thời điểm này, Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu từ tay Biểu thì ông có thể dễ dàng sở hữu một địa bàn độc lập mà không phát sinh vấn đề chủ quyền, dẫn đến xung đột với Đông Ngô như sau này.
Như vậy, với việc Tào Tháo tấn công Giang Đông, sự liên kết của Tôn Quyền và Lưu Bị cũng sẽ được hiện thực hóa trong vai vế bình đẳng hơn.
Ngược lại, trên thực tế, quân đội Lưu Bị đã bị Tào Tháo đè bẹp ở Tân Dã, buộc ông phải cử Khổng Minh làm thuyết khách đến cầu viện Đông Ngô. Về lý thuyết, Lưu Bị luôn ở "chiếu dưới" trong quan hệ đồng minh với Tôn Quyền.
Ngay trong chiến dịch Xích Bích, quân đội chủ đạo đem lại thế thắng cho "liên quân" thực chất cũng là thủy quân của Chu Du.
Qua các điểm này, có thể thấy được ý nghĩa lớn nhất của việc "không bỏ lỡ thời cơ đoạt Kinh Châu" chính là Lưu Bị sẽ được "danh chính ngôn thuận" sử dụng Kinh Châu mà không vấp phải sự chất vấn chủ quyền từ Giang Đông. Có như vậy, "Long Trung đối" mới được thực thi triệt để.
Khi "cơ hội vàng" trôi qua, lịch sử Tam Quốc đã ghi nhận tranh chấp chủ quyền cực lớn giữa Thục và Ngô tại Kinh Châu.
Việc Gia Cát Lượng buộc dựa vào mưu lược để "mượn sức" Đông Ngô đoạt lấy Kinh Tương vô hình trung đã thừa nhận sự góp phần và ăn chia hợp lý của Giang Đông tại khu vực này.
Kinh Châu được Thục tận dụng hiệu quả trong suốt 10 năm trời, nhờ đó thôn tính địa bàn chiến lược thứ 2 là Ích Châu, đủ thấy giá trị địa - chính trị của Kinh Châu không gì thay thế được.
Nhưng mối ẩn họa đối với Thục Hán là sự ổn định khu vực này chỉ là tạm thời. Đông Ngô nhiều lần dùng các biện pháp ngoại giao yêu cầu hoàn trả Kinh Châu, trong khi Khổng Minh chỉ có thể "khất lần" để nuôi dưỡng thực lực với mục đích nuốt trọn được địa bàn này.
Có quan điểm nói rằng điều Khổng Minh lo ngại nhất mà không thể ngăn được chính là Quan Vũ trở thành đại tướng trấn thủ Kinh Châu.
Việc Quan Vũ "đổ thêm dầu vào lửa" dẫn tới xung đột bùng phát và ông để mất Kinh Châu là thực tế, nhưng chỉ là hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn âm ỉ trong suốt 10 năm trời.
Nguyên nhân rất đơn giản, Lưu Bị là phe được lợi và đương nhiên muốn duy trì hiện trạng Kinh Châu, đồng thời "hợp tác hòa bình" với Đông Ngô.
Trong khi đó, Giang Đông là phe chịu thiệt và thậm chí còn bị lợi dụng. Do đó, việc Tôn Quyền phát binh lấy Kinh Châu chỉ là vấn đề thời gian, Thục Hán hy vọng dùng các chính sách ngoại giao để "lần lữa" chỉ là phương án câu giờ, hoàn toàn không xử lý được vấn đề.
Chính vì vậy, có quan điểm bênh vực Quan Vũ nói rằng, việc đoạt lại Kinh Châu từ Thục đã là chiến lược tất yếu của Đông Ngô, cho nên việc Quan Vân Trường có thủ Kinh Châu hay thậm chí là Khổng Minh trực tiếp trấn giữ cũng không thay đổi được gì.
Cho dù Quan Vân Trường không thua trước Lữ Mông, Lục Tốn năm 219 và Kinh Châu chưa mất, thì những năm sau đó, đây vẫn sẽ là khu vực "nóng" nhất trong mâu thuẫn Ngô - Thục.
Để thua trước Lữ Mông là thất bại của Quan Vũ, song để dẫn đến mâu thuẫn Ngô - Thục lại là sai sót của Khổng Minh và Lưu Bị.
Nhiều sự kiện về sau đã chứng minh, Lưu Bị chắc chắn là người sẵn sàng đi ngược lại đạo đức để hành sự. Điều mà Khổng Minh thất bại chính là không đưa ra được một cái cớ hợp lý để Bị thực hiện việc đó với Lưu Biểu.
Trong một hoàn cảnh tương tự, Bàng Thống - nhân vật tề danh cùng Khổng Minh - đã giúp Bị tìm được một lý do "danh chính ngôn thuân", giúp ông ta vượt qua "trở ngại đạo đức" mà đoạt lấy Tây Xuyên.
Câu nói "sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô (Kinh Châu)" mà Khổng Minh nói với Lưu Bị xem ra đã trở thành trò cười, bởi thất bại của họ rất có khả năng xuất phát từ chính thời điểm "sớm muộn" đó mà thôi.
theo Trí Thức Trẻ
Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016
Ảnh động bông hoa đẹp
Trinh Thanh
09:47
No comments
Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016
"Hổ Báo Kỵ" đội quân bí ẩn và tinh nhuệ nhất của Tào Tháo ?
Trinh Thanh
22:49
No comments
"Hổ Báo Kỵ" là một trong những bộ đội đặc chủng của Tào Ngụy, được đánh giá là tinh nhuệ nhất thời đại Tam Quốc, nhưng sử liệu TQ không có nhiều thông tin về đơn vị bí ẩn này.
Thời kỳ Tam Quốc, ba nước Ngụy - Thục - Ngô đều sở hữu những đơn vị quân sự đặc chủng, trong đó lực lượng đặc nhiệm được đánh giá hùng mạnh nhất chính thuộc quân đội của Tào ngụy.
Đội quân tinh nhuệ dưới trướng của Tào Ngụy được gây dựng từ thời Tào Tháo, được gọi là Hổ Báo Kỵ.
Sách "Tam Quốc Chí - Ngụy thư" có đoạn tán dương - "Hổ Báo Kỵ do (Tào) Thuần chỉ huy, là lực lượng tinh nhuệ trong thiên hạ, trăm người mới tuyển được một".
Nhiều danh tướng của Tào Ngụy đã xuất thân từ lực lượng này.
"Tam Quốc Chí" có nhắc tới 8 vị tướng nổi tiếng, gọi là Bát Hổ Kỵ, gồm Tào Nhân, Tào Hồng, Tào Thuần, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Chân, Tào Tu, Hạ Hầu Thượng.
Theo "Hậu Hán thư", cơ quan tối cao chỉ huy quân đội của Tào Ngụy gọi là "Bá phủ". Tào chia quân đội thành 3 bộ phận: trung ương, địa phương và quân "ư nông" (sản xuất).
Trong đó, quân trung ương là đội quân quan trọng nhất, chia thành nội - ngoại quân. Trung quân còn gọi là Vũ Vệ Doanh, tương đương với "Cấm vệ quân" bảo vệ Hoàng thành, trực thuộc Tào Tháo, quân số vào khoảng 100.000 lính.
Hổ Báo Kỵ là đơn vị "cốt lõi" của trung quân, chịu trách nhiệm bảo vệ Tào Tháo, Bá phủ và Hoàng cung.
Tinh thần cơ bản của tiểu thuyết "Tam Quốc Diễn Nghĩa" là "ca ngợi Lưu Bị, chê bai Tào Tháo", do đó lực lượng Hổ Báo Kỵ hầu như không được nhắc tới.
Trong tiểu thuyết chỉ có đoạn mô tả sơ sài 5.000 thiết kỵ đánh thắng Lưu hoàng thúc, khiến độc giả có ấn tượng sai lầm.
Thực tế, đơn vị quân sự "chinh phạt Kinh Châu, đuổi Lưu Bị về Trường Bản" mà Khổng Minh gọi là "cường nỏ hết thời" này chính là Hổ Báo Kỵ - một trong những đội quân đặc chủng tinh nhuệ nhất thời Tam Quốc.
Đuổi Lưu Bị, phá Mã Siêu
Năm Kiến An thứ 9 (204), trong chiến dịch Nam Bì, Hổ Báo Kỵ trảm được Viên Đàm.
Năm Kiến An 12, Tào Tháo Bắc Chinh các bộ tộc Hung Nô - "Bộ, kỵ binh của (Tào) Thuần chặt được thủ cấp của Thiền Vu".
Năm Kiến An 13, Hổ Báo Kỵ đại phá Lưu Bị ở dốc Trường Bản, lập kỳ tích "1 đêm hành quân 300 dặm" tập kích, đánh quân Lưu "không còn manh giáp".
Nếu không nhờ sự xuất hiện kịp thời của Quan Vũ, có thể Lưu Bị đã chôn thây ở đây chứ không còn cơ hội xưng đế ngày sau.
Năm Kiến An 16, lực lượng này tiếp tục đánh bại đội quân thiết kỵ Tây Lương nổi tiếng do Mã Siêu chỉ huy.
Theo sử liệu TQ, Mã Siêu "dùng sức một Châu đối đầu với toàn bộ Tào Ngụy, tất cả dựa vào 'Tây Lương thiết kỵ'", đủ thấy sức mạnh của lực lượng này.
Chiến thắng trước Mã Siêu là một trong những thắng lợi thể hiện năng lực vượt trội của Hổ Báo Kỵ
Gần như trong mỗi chiến dịch trọng yếu của Tào Tháo, hoặc khi Ngụy quân rơi vào tình thế nguy cấp, Hổ Báo Kỵ mới được điều động tham chiến để "nghịch chuyển càn khôn".
Theo chính sử, Tào Tháo chia Hổ Báo Kỵ thành Hổ Kỵ Doanh và Báo Kỵ Doanh. Chức trưởng quan chỉ huy 2 doanh được định đoạt thông qua thi đấu võ nghệ, mưu trí, chiến lược chiến thuật...
Các chức vụ chỉ huy cao nhất của Hổ Báo Kỵ chưa từng lọt khỏi tay gia tộc Tào thị.
Các đời thống lĩnh Hổ Báo Kỵ đều là tướng lĩnh mang họ Tào, như Tào Thuần, Tào Tu và Tào Chân.
Sau khi vị tư lệnh cuối cùng của Hổ Báo Kỵ là Tào Thuần qua đời, mặc dù văn võ bá quan cũng tiến cử nhiều cái tên trong họ, nhưng cuối cùng Thừa tướng Tào Tháo vẫn "phải" kiêm nhiệm chức Đô thống Hổ Báo Kỵ cho đến cuối đời.
Thời kỳ Tam Quốc, ba nước Ngụy - Thục - Ngô đều sở hữu những đơn vị quân sự đặc chủng, trong đó lực lượng đặc nhiệm được đánh giá hùng mạnh nhất chính thuộc quân đội của Tào ngụy.
Đội quân tinh nhuệ dưới trướng của Tào Ngụy được gây dựng từ thời Tào Tháo, được gọi là Hổ Báo Kỵ.
Sách "Tam Quốc Chí - Ngụy thư" có đoạn tán dương - "Hổ Báo Kỵ do (Tào) Thuần chỉ huy, là lực lượng tinh nhuệ trong thiên hạ, trăm người mới tuyển được một".
Nhiều danh tướng của Tào Ngụy đã xuất thân từ lực lượng này.
"Tam Quốc Chí" có nhắc tới 8 vị tướng nổi tiếng, gọi là Bát Hổ Kỵ, gồm Tào Nhân, Tào Hồng, Tào Thuần, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Chân, Tào Tu, Hạ Hầu Thượng.
Theo "Hậu Hán thư", cơ quan tối cao chỉ huy quân đội của Tào Ngụy gọi là "Bá phủ". Tào chia quân đội thành 3 bộ phận: trung ương, địa phương và quân "ư nông" (sản xuất).
Trong đó, quân trung ương là đội quân quan trọng nhất, chia thành nội - ngoại quân. Trung quân còn gọi là Vũ Vệ Doanh, tương đương với "Cấm vệ quân" bảo vệ Hoàng thành, trực thuộc Tào Tháo, quân số vào khoảng 100.000 lính.
Hổ Báo Kỵ là đơn vị "cốt lõi" của trung quân, chịu trách nhiệm bảo vệ Tào Tháo, Bá phủ và Hoàng cung.
Tinh thần cơ bản của tiểu thuyết "Tam Quốc Diễn Nghĩa" là "ca ngợi Lưu Bị, chê bai Tào Tháo", do đó lực lượng Hổ Báo Kỵ hầu như không được nhắc tới.
Trong tiểu thuyết chỉ có đoạn mô tả sơ sài 5.000 thiết kỵ đánh thắng Lưu hoàng thúc, khiến độc giả có ấn tượng sai lầm.
Thực tế, đơn vị quân sự "chinh phạt Kinh Châu, đuổi Lưu Bị về Trường Bản" mà Khổng Minh gọi là "cường nỏ hết thời" này chính là Hổ Báo Kỵ - một trong những đội quân đặc chủng tinh nhuệ nhất thời Tam Quốc.
Các thống soái của Hổ Báo Kỵ đều là tướng mang họ Tào.
Năm Kiến An thứ 9 (204), trong chiến dịch Nam Bì, Hổ Báo Kỵ trảm được Viên Đàm.
Năm Kiến An 12, Tào Tháo Bắc Chinh các bộ tộc Hung Nô - "Bộ, kỵ binh của (Tào) Thuần chặt được thủ cấp của Thiền Vu".
Năm Kiến An 13, Hổ Báo Kỵ đại phá Lưu Bị ở dốc Trường Bản, lập kỳ tích "1 đêm hành quân 300 dặm" tập kích, đánh quân Lưu "không còn manh giáp".
Nếu không nhờ sự xuất hiện kịp thời của Quan Vũ, có thể Lưu Bị đã chôn thây ở đây chứ không còn cơ hội xưng đế ngày sau.
Năm Kiến An 16, lực lượng này tiếp tục đánh bại đội quân thiết kỵ Tây Lương nổi tiếng do Mã Siêu chỉ huy.
Theo sử liệu TQ, Mã Siêu "dùng sức một Châu đối đầu với toàn bộ Tào Ngụy, tất cả dựa vào 'Tây Lương thiết kỵ'", đủ thấy sức mạnh của lực lượng này.
Chiến thắng trước Mã Siêu là một trong những thắng lợi thể hiện năng lực vượt trội của Hổ Báo Kỵ
Gần như trong mỗi chiến dịch trọng yếu của Tào Tháo, hoặc khi Ngụy quân rơi vào tình thế nguy cấp, Hổ Báo Kỵ mới được điều động tham chiến để "nghịch chuyển càn khôn".
Theo chính sử, Tào Tháo chia Hổ Báo Kỵ thành Hổ Kỵ Doanh và Báo Kỵ Doanh. Chức trưởng quan chỉ huy 2 doanh được định đoạt thông qua thi đấu võ nghệ, mưu trí, chiến lược chiến thuật...
Các chức vụ chỉ huy cao nhất của Hổ Báo Kỵ chưa từng lọt khỏi tay gia tộc Tào thị.
Các đời thống lĩnh Hổ Báo Kỵ đều là tướng lĩnh mang họ Tào, như Tào Thuần, Tào Tu và Tào Chân.
Sau khi vị tư lệnh cuối cùng của Hổ Báo Kỵ là Tào Thuần qua đời, mặc dù văn võ bá quan cũng tiến cử nhiều cái tên trong họ, nhưng cuối cùng Thừa tướng Tào Tháo vẫn "phải" kiêm nhiệm chức Đô thống Hổ Báo Kỵ cho đến cuối đời.
theo Trí Thức Trẻ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)